Đại
tướng Phùng Quang Thanh 'lo lắng' vì dân Việt ngày càng ghét Tàu Cộng
Vì
sao các công ty Mỹ ồ ạt tháo chạy khỏi Trung Quốc?
|
|
|||||||
|
|
|
|
|
|
|
||
|
Preview by Yahoo
|
|||||||
|
|
|||||||
Bảng Đỏ (Danlambao) - Phát biểu hôm 29/12/2014, bộ trưởng bộ quốc phòng Phùng
Quanh Thanh bày tỏ sự quan ngại trước xu thế người Việt Nam ngày càng ghét
Trung Cộng, điều mà người đứng đầu lực lượng quân đội CSVN cho rằng sẽ là
"nguy hiểm cho dân tộc".
“Tôi thấy lo lắng lắm,
không biết tuyên truyền thế nào, chứ từ trẻ con đến người già có xu thế ghét
Trung Quốc. Ai nói tích cực cho Trung Quốc là ngại. Tôi cho rằng, cái đó là
nguy hiểm cho dân tộc”,
báo Thanh Tra trích
nguyên văn lời phát biểu của ông Phùng Quang Thanh tại hội nghị của Chính
phủ với địa phương triển khai Nghị quyết của Quốc hội về nhiệm vụ kinh tế - xã
hội và dự toán ngân sách Nhà nước năm 2015.
Cũng theo người đứng đầu quân đội CSVN, khi
giữa hai nước xảy ra xung đột thì cần phải “hết sức bình tĩnh, tin
tưởng tuyệt đối vào Bộ Chính trị, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ”.
“Chúng ta tăng cường
hợp tác để hạn chế mặt phải đấu tranh, nhưng đấu tranh cũng để hợp tác. Đấu
tranh không thể để đỗ vỡ, xung đột”,
đại tướng Phùng Quanh Thanh 'lý luận'.
Trước dã tâm ngày càng thâm độc của Trung
Cộngxâm lược, thay vì lo lắng cho vận mệnh tồn vong của đất nước thì ông Thanh
lại 'lo lắng' khi người dân Việt Nam ngày càng ghét Trung Cộng. Quả là chuyện
ngược đời.
Một lần nữa, bộ trưởng Phùng Quang Thanh đã lộ
rõ bộ mặt nâng bi, nịnh bợ của một kẻ thân Tàu. Bởi lẽ chỉ có Tàu Cộng mới cảm
thấy lo lắng khi bị người khác ghét.
Cũng cần nói rõ với tướng Thanh, người dân
chúng tôi không hề ghét nhân dân Trung Quốc, bằng chứng là rất nhiều người Hoa
vẫn đang sống và làm ăn yên bình tại Việt Nam.
Dù có thể không thích người Hoa, nhưng người
dân Việt Nam cũng không làm hại họ. Trong khi đó, chính đảng CSVN là thủ phạm
cướp bóc và xua đuổi người Hoa hồi cuối thập niên 70.
Do đó, Phùng Quang Thanh hãy thôi ngay cái trò
quy chụp như trên.
Nhân đây, cũng xin nói rõ với tướng Thanh, thế
lực mà nhân dân chúng tôi căm ghét đó chính là đảng cộng sản Trung Cộng với chủ
trương xâm lược. Đối với kẻ thù xâm lược thì chỉ ghét chứ không ai yêu cả.
Và cũng nói thêm một điều, chúng tôi ghét bọn
cộng sản Trung Cộng một, nhưng ghét cái đảng cộng sản Việt Nam này đến 10. Bởi
chính đảng CSVN là một đảng bán nước hại dân. Lịch sử đã chứng minh, chế độ CS
đã tiếp tay cho Trung Cộng xâm chiếm Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam.
Lòng dân còn biết ghét bọn xâm lược, biết phẫn nộ trước bọn bán nước hại dân thì vẫn còn là điều may mắn cho dân tộc.
Lòng dân còn biết ghét bọn xâm lược, biết phẫn nộ trước bọn bán nước hại dân thì vẫn còn là điều may mắn cho dân tộc.
Mỗi sự thật hiển nhiên là dân Việt ghét Tàu Cộng cũng đủ khiến bộ trưởng quốc phòng Phùng Quang Thanh lo sợ, không hiểu đến khi lâm trận thực sự thì ông đại tướng sẽ cầm quân như thế nào đây?
Tham vọng Biển không
giới hạn của Trung Quốc
Bùi Hùng/VOV.VN
VOV.VN – “Việc làm của Trung Quốc khiến Trung Quốc sẽ đánh mất
uy tín của chính mình”.
LTS: Trong
những năm gần đây, Trung Quốc luôn có những động thái mạnh trên Biển Đông như
“Yêu sách đường đứt khúc 10 đoạn”, xây dựng trái phép tại nhiều đảo tại Biển
Đông, đặc biệt ở những khu vực thuộc quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt
Nam. Hành động này đã vấp phải sự phản đối của Việt Nam và nhiều nước trên thế
giới, gây ảnh hưởng tới cục diện hòa bình, an ninh, ổn định khu vực.
Loạt bài: “Trung Quốc- lộ trình “độc chiếm” Biển Đông” của VOV.VN sẽ cung cấp tới bạn đọc thông tin sâu hơn về
phản ứng của quốc tế về ý đồ của Trung Quốc tại Biển Đông trong thời gian qua
và dự đoán diễn biến trong thời gian tới.
Bài 1: Tham vọng Biển không giới hạn của Trung
Quốc
Bài 2: Trung Quốc và ý đồ tạo lợi thế
thương lượng về Biển Đông
Bài 3: Lộ trình “chiếm” Biển Đông của Trung
Quốc
Bài 4: Biển Đông có thể trở thành khu vực nguy
hiểm nhất thế giới?
Trong quá trình lịch sử phát triển của Trung
Quốc, “chinh phạt” là từ thường trực trong tư duy của các bậc tiền nhân và
nhiều thế hệ lãnh đạo Trung Quốc sau này.
Bản đồ Con đường tơ lụa trên biển (màu xanh)
và trên bộ (màu cam) của Trung Quốc (Ảnh AFP)
Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu, từ đời
Tần mỗi khi có một họ thống nhất Trung Hoa thì lập tức nghĩ đến việc chiếm các
nước nhỏ chung quanh. Việt Nam là nước bên cạnh Trung Quốc cũng không tránh
khỏi qui luật đó và nhiều lần là nạn nhân đau thương của “chủ nghĩa bành
trướng”.
Hành động của Trung Quốc tại Biển Đông ngày
càng lộ rõ những mưu đồ bất chấp luật pháp quốc tế hòng “thâu tóm” Biển Đông
thực hiện mong muốn xây dựng một Trung Hoa mới.
Tuy nhiên, hành động của Trung Quốc hoàn toàn
là hành động cá nhân.
Tham vọng biển cả
Theo khảo sát của nhà nghiên cứu Đinh Kim
Phúc, dựa trên những tấm bản đồ cổ từ năm 1909 trở về trước, người ta thấy tất
cả bản đồ cổ nước Trung Quốc do người Trung Quốc vẽ không có bản đồ nào ghi các
quần đảo Tây Sa, Nam Sa. Tất cả các bản đồ đó đều xác định đảo Hải Nam là cực
nam của biên giới phía Nam Trung Quốc.
Hơn một trăm năm trước, vào cuối thời kỳ nhà
Thanh, Trung Quốc cũng phải đối diện với việc phải bảo vệ Biển và khu vực biên
giới của mình với tư duy “chinh phục những vùng đất mới”. Tuy nhiên, cuộc viễn
chinh “Đông tiến” thời kỳ đó (chiến tranh Nhật-Thanh- theo cách gọi của Nhật
Bản) đã bị thất bại cay đắng mà chiến thắng thuộc về Nhật Bản.Và không hết tham
vọng, sau đó Trung Quốc đã tiến hành thêm một cuộc “Tây tiến”, nhưng Trung Quốc
đã không đạt được kết quả như mong đợi.
Hơn 100 năm đã trôi qua và ngày nay Trung Quốc
lại thiết lập một chiến lược ngoại giao mới xuyên từ “Đông sang Tây”. Phía Đông
giáp với Đại dương là khu vực tập trung nhiều yếu tố đề phát triển, con đường
thương mại, vận chuyển quan trọng nhất không những của Trung Quốc mà của cả thế
giới. Ở khu vực phía Tây nếu như “Con đường tơ lụa” mới được mở ra thì Trung Quốc
sẽ có một thị trường nhiều tiềm năng lớn, mở rộng dư địa trong chiến lược ngoại
giao. Tuy nhiên, Trung Quốc cũng sẽ phải đối mặt với sự de dọa khủng khiếp của
những kẻ khủng bố.
Trong chiến lược ngoại giao “Đông tiến”, Trung
Quốc đã đạt được những thành quả nhất định. So với chiến lược này thì chiến
lược “Tây tiến” có phần hạn chế và do chậm phát triển. Cụ thể là cuối thể kỷ XX
tổ chức hợp tác Thượng Hải được thành lập, trải qua nhiều năm tổ chức này tuy
có có tiếng nói nhất định trong hợp tác khu vực nhưng cũng không làm thay đổi
nhiều địa vị của Trung Quốc. Do vậy, Trung Quốc đã đầy hy vọng mở ra “Con đường
tơ lụa mới” nhằm tăng cường tiềm lực kinh tế, gây ảnh hưởng ra phía Biển, với
hy vọng thâu tóm kinh tế khu vực và thế giới.
Chủ tịch Tập Cận Bình tháng 9/2013 trong
chuyến thăm 4 nước Trung Nam Á đã đề xướng với các nước này về ý tưởng thiết
lập “Con đường tơ lụa mới”, mở ra không gian ngoại giao ở khu vực phía Tây
Trung Quốc thông qua việc tiếp xúc lẫn nhau giữa Trung Quốc và các nước Trung
Á.
Trong “Con đường tơ lụa mới” thì “con đường tơ
lụa trên biển” được Trung Quốc đặc biệt quan tâm, ẩn chứa nhiều tham vọng, với
mục đích tạo ra một trật tự mới trên biển mà các nước, trước hết là các nước
láng giềng ven biển đi theo một quỹ đạo do Trung Quốc điều hành và chi phối.
Qua việc sử dụng “con đường tơ lụa trên biển”,
Trung Quốc cố gắng tạo ra một hình ảnh đất nước thân thiện, hữu nghị phục vụ
cho sự trỗi dậy và mở rộng ảnh hưởng của mình, tạo cơ hội cho Trung Quốc thúc
đẩy chủ trương “gác tranh chấp, cùng khai thác” để khai thác các tài nguyên
trên biển ở những khu vực mà “con đường tơ lụa trên biển” đi qua, nhất là nguồn
năng lượng dầu, khí đáp ứng nhu cầu “khát” năng lượng của Trung Quốc.
“Con đường tơ lụa trên biển” là để thực hiện
mưu đồ về lãnh thổ và yêu sách biển đảo của Trung Quốc. Thực hiện thành công
sáng kiến “con đường tơ lụa trên biển” sẽ tạo ra “danh chính, ngôn thuận” và
điều kiện thuận lợi cho việc hiện diện ra các vùng biển của Trung Quốc, trước
hết là khu vực Biển Đông, eo biển Malacca, Ấn Độ Dương, giúp cho Trung Quốc mở
rộng ảnh hưởng trên biển và tăng cường ảnh hưởng về quân sự trên biển.
Chính vì vậy những hành động của Trung Quốc
trong thời gian gần đây càng ngày càng tỏ ra “quá đáng” vấp phải sự phản đối
của các nước láng giềng, Mỹ và nhiều nước khác trên thế giới.
Chuyển mâu thuẫn từ bên trong ra bên ngoài
Lý giải về những hành động của Trung Quốc
trong thời gian qua, Đại tá Lê Văn Vị (chuyên gia phân tích quốc tế) cho
rằng có nguyên nhân chủ yếu liên quan tới bối cảnh trong nước Trung Quốc.
Đó là, lãnh đạo Trung Quốc đang tích cực thực hiện chiến dịch chống tham nhũng
mạnh mẽ với phương châm “đả hổ diệt ruồi”, không loại trừ nhân vật nào
nếu có hành vi tham nhũng.
Diệt ruồi có thể không khó nhưng động đến hổ
nhất định có phản ứng. Nhưng qua đây cũng có thể thấy trong nội bộ Trung Quốc
có những cuộc đấu tranh ngầm. Tiếp đó, tại nhiều vùng của Trung Quốc đang bất
ổn, đặc biệt là Tân Cương hầu như năm nào cũng có xung đột. Đó là xung đột giữa
người Hán và người dân tộc. Thậm chí người Tân Cương còn xuống cả Côn Minh,
Quảng Châu… gây ra những vụ bạo lực gây chết nhiều người.
Bên cạnh đó, kinh tế Trung Quốc sau thời gian
phát triển nóng với tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ đã trở thành cường quốc số 2
thế giới về kinh tế, nhưng chất lượng cuộc sống lại đối mặt với nhiều vấn đề.
Khu vực miền Đông tuy phát triển mạnh, nhưng miền Trung và miền Tây còn nhiều
khó khăn. Trung Quốc tuy được xem là công xưởng thế giới, nhưng cũng được coi
là nơi tiêu hao nhiều năng lượng nhất thế giới, trong đó có dầu hỏa. Do vậy,
Trung Quốc luôn luôn tìm những giải pháp để thỏa mãn cơn khát tài nguyên, cũng
như áp lực phát triển nóng.
Theo Đại tá Lê Văn Vị, yếu tố ngoài nước cũng
gây ảnh hưởng lớn tới chiến lược phát triển của Trung Quốc. Theo đó, lãnh đạo
Trung Quốc có tính toán rằng thời điểm hiện tại, thế giới đang tập trung vào
khủng hoảng ở Ukraine, đối phó với chủ nghĩa khủng bố mới do những tổ chức
khủng mới thực hiện…Cả Nga và EU, Mỹ đều đồn sức tìm cách giải quyết vấn đề
này.
Đại tá Lê Văn Vị nhận định: Việc Trung Quốc
gần đây đặt giàn khoan Hải Dương-981 tại vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam,
xây dựng trên các đảo tại khu vực Biển Đông… giúp Trung Quốc đạt được nhiều mục
đích. Trước hết thể hiện được cái mà Trung Quốc gọi là lợi ích cốt lõi “đường 9
đoạn” rất phi lý mà thế giới gọi là “đường lưỡi bò”. Về mặt chính trị Trung
Quốc muốn xác định chủ quyền của họ. Về mặt kinh tế, nếu có dầu khí tại các khu
vực trên sẽ mang lại lợi ích cho Trung Quốc. Đồng thời, Trung Quốc đã chuyển
hóa mâu thuẫn bên trong ra bên ngoài, lấy sự “đồng tâm nhất trí” vu cáo Việt
Nam và các nước khác. Đây là việc đã thường làm ở Trung Quốc.
Giàn khoan Hải Dương-981 hạ đặt trái phép
trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam
Ngoài ra cũng đúng như Tiến sĩ Trần Công Trục-
Nguyên Trưởng ban Biên giới chính phủ khẳng định: Việc làm của Trung Quốc tuy rất khôn khéo, rất mưu mẹo nhưng
khi làm một việc gì không có chính nghĩa, không đúng chắc chắn sẽ có những sơ
hở. Việc làm của Trung Quốc khiến Trung Quốc sẽ đánh mất uy tín của chính mình.
Leo thang xâm chiếm
Vào giữa thế kỷ XX, liền sau chiến thắng ở đại
lục, quân đội Trung Quốc thay thế quân đội Quốc Dân đảng Trung Hoa chiếm đóng
đảo Phú Lâm (thuộc quần đảo Hoàng Sa) năm 1956, trong khi đó Đài Loan vẫn tiếp
tục thường xuyên có mặt tại đảo Ba Bình (thuộc quần đảo Trường Sa của Việt
Nam).
Năm 1974, quân đội Trung Quốc đã sử dụng vũ
lực, đẩy quân đội của chính quyền Việt Nam Cộng Hòa ra khỏi quần đảo Hoàng Sa,
chiếm cứ quần đảo này một cách bất hợp pháp. Hơn 10 năm sau (1988), họ lại
ngang nhiên đổ bộ với mưu đồ chiếm một số hòn đảo của quần đảo Trường Sa.
Những giai đoạn sau (từ 1956-nay), hoạt động
leo thang xâm chiếm các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền của Việt
Nam ngày càng mạnh hơn, với những ý đồ mới, với nhiều hành động khiêu khích,
đụng độ, đe dọa sự toàn vẹn lãnh thổ biển đảo của Việt Nam, hòa bình của Biển
Đông.
Cao điểm của những động thái này là việc Trung
Quốc tuyên bố “đường lưỡi bò” ở biển Đông (chiếm 80% diện tích trên Biển Đông),
nhất là quyết định của Quốc Vụ viện Trung Quốc, ngày 2/12/2007, thành lập một
trung tâm hành chính với tên gọi Tam Sa ở Hải Nam để quản lý quần đảo Trường
Sa, Hoàng Sa và các đảo khác.
Tháng 1/2013, lần đầu tiên Trung Quốc tiếp tục
đưa ra tấm bản đồ dọc mới – bao gồm 10 đoạn – thay thế cho đường lưỡi bò 9 đoạn
của Trung Quốc trước đây, và bao trùm lãnh thổ của nhiều quốc gia láng giềng. Tháng
6/2014, Trung Quốc chính thức công bố tấm bản đồ này, tự mở rộng thêm lãnh thổ
của mình trên biển.
Hành động này bị nhiều nước phản đối. GMA News đã dẫn lời
người phát ngôn Bộ Ngoại giao Philippines Charles Jose tuyên bố ngày 26/6 cho
rằng Trung Quốc không thể áp đặt chủ quyền của mình trên Biển Đông chỉ dựa vào
bản đồ mới của mình.
Ông Jose nhấn mạnh Philippines không công nhận
bản đồ của Trung Quốc và cho rằng đây là “một sự bành trướng phi lý”.
“Bản đồ mới của Trung Quốc phải tuân thủ luật
pháp quốc tế. Không nước nào công nhận đường lưỡi bò của Trung Quốc”, ông Jose
nói.
Đại sứ Mỹ tại Philippines Philip Goldberg cho
rằng đường 10 đoạn mà Trung Quốc đưa ra là một chứng cứ ngụy tạo nhằm độc chiếm
Biển Đông.
Ngày 25/05/2010, Theo nguồn tin từ Tân Hoa xã,
Trung Quốc đã thực hiện xong các khâu cuối cùng của hoạt động lắp đặt trạm thu
phát sóng điện thoại đầu tiên trên đảo Chữ Thập (thuộc quần đảo Trường Sa).
Theo nhà nghiên cứu Đinh Kim Phúc, cũng trong khoảng thời gian này, Trung Quốc
đã sử dụng nhiều tàu bảo vệ tiến hành khảo sát địa chấn tại khu vực đảo Tri
Tôn, quần đảo Hoàng Sa, tiến hành san lấp với mục đích xây dựng công trình trên
đảo này.
Ngày 06/06/2010, một loạt báo chí Malaysia đưa
tin về khả năng Trung Quốc có thể sẽ bố trí tên lửa đạn đạo Trường Kiếm 10 tại
khu vực quần đảo Trường Sa.
Bản đồ đường 10 đoạn mới mà Trung Quốc phát
hành một tháng sau khi đưa giàn khoan Hải Dương-981 vào vùng đặc quyền kinh tế
của Việt Nam (Ảnh AP)
Với những mưu đồ sẵn có, hành động của Trung
Quốc ngày càng lấn tới. Đỉnh điểm mới là lúc 5h22’ ngày 01/05/2014, Cơ quan
chức năng Việt Nam phát hiện giàn khoan nước sâu Hai Yang Shi You 981
(Việt Nam vẫn thường gọi là Giàn khoan Hải Dương-981) tại vùng đặc quyền kinh
tế và thềm lục địa Việt Nam. Trung Quốc đã dùng bạo lực, vòi rồng phun vào tàu
của Lực lượng cảnh sát biển Việt Nam, ngư dân Việt Nam, gây thương tích.
Tuy nhiên, cho dù thế nào đi chăng nữa, đúng
như nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu nhận định, những “bằng chứng” thuộc loại
“đao to búa lớn” mà Trung Quốc thường trưng dẫn trong mấy thập niên gần đây
thực ra chỉ là những “chứng cớ giả”. Bởi trước những hành động phi pháp
của Trung Quốc và những bằng chứng lịch sử hiển nhiên, chẳng ai có thể dễ dàng
lấy “vải thưa che mắt thánh”.
Theo nhà nghiên cứu Đinh Kim Phúc, nói đi nói
lại dù cho lời hay ý đẹp cũng là “Chủ quyền thuộc ngã” khi muốn ôm trọn Biển
Đông ở phương nam hay những hòn đảo, đá… ở Biển Đông Trung Hoa như Senkaku/Điếu
Ngư, Okinotori (Nhật Bản) mang tính chiến lược của ý đồ bành trướng ấp ủ từ
lâu.
Đón đọc bài 2: Trung Quốc và ý đồ tạo lợi thế
thương lượng về Biển Đông
B.H.



No comments:
Post a Comment