65
năm bang giao Trung-Việt!!!
Chiến tranh biên giới Việt Trung năm 1979
|
|||||||
|
|
|
|
|
|
||
Preview by Yahoo
|
|||||||
|
|||||||
BNS Tự do
Ngôn Luận -
Hôm 14-1, sứ quán Việt cộng bên Tàu đã tổ chức họp báo về việc kỷ niệm 65 năm
thiết lập quan hệ ngoại giao Việt-Trung (18/1/1950-18/1/2015). Theo đại sứ
Nguyễn Văn Thơ, đây là dịp quan trọng để hai nước nâng cao hơn nữa mối “quan hệ
hữu nghị truyền thống” và “hợp tác chiến lược toàn diện”. Lý do: Trung Quốc vừa
là láng giềng lớn, vừa là nước cùng chế độ xã hội chủ nghĩa, vừa là đối tác
quan trọng hàng đầu của Việt Nam!
Phản ảnh Cam kết hợp tác toàn diện tháng
2-2011, Nguyễn Văn Thơ nói: “Đảng, Chính phủ và nhân dân VN trước sau
như một luôn xem trọng việc phát triển quan hệ mọi mặt với Trung Quốc, coi đây
là một trong những ưu tiên hàng đầu, nhất quán và lâu dài trong chính sách đối
ngoại của VN”.
Đại diện Hà Nội nêu
rõ: hai nước cần (1) tăng cường các cuộc tiếp xúc, thăm viếng cấp cao cũng như
giao lưu giữa các bộ ngành và địa phương, đặc biệt thế hệ trẻ, nhằm củng cố
niềm tin chính trị và niềm tin chiến lược; (2) tiếp tục thúc đẩy hợp tác kinh
tế thương mại, sớm thành lập hai nhóm công tác về cơ sở hạ tầng và tiền tệ; (3)
tiếp tục giải quyết vấn đề Biển Đông bằng các biện pháp hòa bình, trên cơ sở
tôn trọng lợi ích song phương và luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước Liên
hợp quốc về Luật biển năm 1982, Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông
(DOC); (4) tăng cường tuyên truyền về tình hữu nghị, sự hiểu biết và mối
quan hệ giữa hai dân tộc, nhất là cho giới trẻ”. (Theo Thông tấn xã VN 14-01-2015).
Thiệt là trong lịch sử bang giao giữa các quốc
gia và dân tộc tự cổ chí kim, từ đông sang tây, nhất là trong mấy ngàn năm Việt
sử, chưa hề có mối quan hệ thắm thiết, sâu sắc, toàn diện như vậy!?!
Để chuẩn bị cho tinh thần này, ngày
27-12-2014, Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ/VN - Nguyễn Thiện Nhân - và Chủ
tịch Ủy ban toàn quốc Hội nghị Hiệp thương chính trị TQ - Du Chính Thanh - đã
cùng khai trương "Học viện Khổng Tử", một cơ quan tuyên truyền cho
Tàu cộng. Sau đó, tại “hội nghị của Chính phủ với địa phương triển khai Nghị
quyết của Quốc hội về nhiệm vụ kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách Nhà nước
năm 2015” ngày 29-12, bộ trưởng Quốc phòng Phùng Quang Thanh đã khẳng định: “Tôi
thấy lo lắng lắm, không biết tuyên truyền thế nào, chứ từ trẻ con đến người già
có xu thế ghét Trung Quốc. Ai nói tích cực cho Trung Quốc là ngại. Tôi cho
rằng, cái đó là nguy hiểm cho dân tộc”.
Nhân kỷ niệm 65 năm bang giao Trung-Việt, hãy
thử nhìn lại mối quan hệ giữa hai lân bang này, mà đúng hơn là giữa hai cộng
đảng. Một mối quan hệ luôn thể hiện trong ý đồ xâm lăng, kiểu cách “cá lớn nuốt
cá bé” như từng chứng kiến trong lịch sử các quốc gia CS: Nga đối với các tiểu
quốc Liên bang Xô viết, Liên Xô đối với các nước Đông Âu, và Tàu cộng đối với
các nước châu Á cộng sản.
Ngày 13-1-1950, Bộ trưởng Ngoại giao VN, Hoàng
Minh Giám, rồi ngày 18-1-1950, Bộ trưởng Ngoại giao TQ, Chu Ân Lai thay mặt
chính phủ hai nước gửi công hàm công nhận lẫn nhau và đề nghị thiết lập quan
hệ, từ đó ngày 18-1 được coi là ngày kỷ niệm chung. Nhưng cũng chính từ hôm
này, mộng xâm lăng bành trướng muôn thuở của Đại Hán “tiến lên một tầm cao mới”.
Lợi dụng sự viện trợ quân sự to lớn để giúp Hà Nội đánh Pháp rồi đánh Mỹ, mà
thực chất là đánh phe quốc gia và chế độ tư bản, lợi dụng lòng tin tưởng mù
quáng của Hồ Chí Minh và đảng Việt cộng vào tình đồng chí vô sản (hay là niềm
tín thác sáng suốt của tên Tàu đội lốt Việt Hồ Tập Chương), lợi dụng sự ngu dốt
về lịch sử chống giặc của tiền nhân và sự coi thường khí phách kháng Tàu của
dân tộc, Mao Trạch Đông đã phá vỡ Ải Nam Quan, tiền đồn chốt chặn ngàn đời của
nước Việt để không những đem lực lượng quân sự mà cả lực lượng chính trị, kinh
tế, văn hóa ngõ hầu xâm lược Việt Nam, biến nó lại thành An Nam, và xa hơn là
thành tỉnh Âu Lạc.
Bước xâm lược đầu tiên thể hiện qua cuộc Cải
cách ruộng đất tiến hành theo đường lối Tàu và dưới sự chỉ đạo của Tàu, vừa
nhằm tước đoạt đất đai cho cộng đảng, vừa nhằm phá vỡ cơ cấu xã hội và đạo đức
dân tộc, vừa nhắm làm kiệt quệ kinh tế của Hà Nội để phải nhận sự viện trợ của
Bắc Kinh trong cuộc chiến mở xuống phía Nam chủ nghĩa CS. Tiếp đến là thể hiện
qua cuộc Trăm hoa đua nở theo tinh thần “Bách gia tranh minh” của Trung Nam
Hải, vừa nhằm mục đích cải biến trí thức thành “cục phân” (vì mù quáng thần
phục đảng) vừa nhằm mục đích tiêu diệt văn hóa Việt để văn hóa Tàu dễ tràn vào.
Cuộc thống trị kiểu “cá lớn nuốt cá bé” tiến
thêm một bước với công hàm Phạm Văn Đồng năm 1958 nhằm tước bỏ chủ quyền nước
Việt trên Hoàng Sa lẫn Trường Sa để giao cho kẻ ngoại thù mà cả mấy ngàn năm,
biên giới phía Nam chỉ đến Hải Nam đảo. Giao cho chúng ngõ hầu được chúng viện
trợ quân trang, quân dụng và cả quân đội để tàn phá chính đất nước của Tổ tiên
(“dẫu đốt cả dãy Trường Sơn” như HCM từng nói), tàn sát chính đồng bào cùng
huyết tộc (“đánh Mỹ cho tới người Việt cuối cùng vì Trung Quốc” như Lê Duẩn từng
khẳng định). Cuộc chiến tranh tương tàn càng kéo dài bao lâu thì cuộc xâm lăng
của Trung Nam Hải càng tiến sâu chừng ấy.
Đến năm 1974, khi Tàu cộng ngang nhiên xâm
chiếm Hoàng Sa của đất nước, phá vỡ cuộc kháng cự anh dũng của VNCH, vào chính
ngày kỷ niệm bang giao Trung-Việt (18-01), thì như để đánh dấu tình hữu nghị
răng môi, tình đồng chí vô sản, Hà Nội hí hửng tuyên bố: “Thà để Hoàng
Sa thuộc Trung Quốc hơn là thuộc Ngụy Sài Gòn. Bạn giữ cho ta rồi có ngày sẽ
trao lại”?!? Xâm lăng VNCH xong, Hà Nội bắt đầu bị Bắc Kinh đòi nợ chiến
phí. Khốn nạn một điều là Trung Nam Hải không đòi tiền (mà có đòi thì Ba Đình
chẳng biết lấy đâu đủ để trả) cho bằng đòi dâng đất, một điều mà vua chúa Việt
chưa từng làm trong lịch sử, thậm chí còn cấm đoán với lời răn đe tru di tam
tộc (Trần Nhân Tông). Nhưng Việt cộng thì cần gì biết tinh thần lẫn giáo huấn
đó, nên năm 1988, lúc Tàu cộng chiếm thêm Gạc Ma thuộc Trường Sa quần đảo,
chính tên bộ trưởng quốc phòng thân Tàu là Lê Đức Anh đã cấm binh sĩ kháng cự,
coi chúng như kẻ thù, thậm chí Bộ Chính trị sau đó còn cấm loan tin (rồi sẽ
nhiều lần cấm tưởng niệm), khiến cho 64 chiến sĩ hải quân mãi mãi là những oan
hồn tức tưởi vì bị hy sinh cho thứ tình hữu nghị không ai hiểu nổi!
Sau khi mất chỗ dựa vật chất và tinh thần từ
anh cả Liên Xô và khối Đông Âu cộng sản, Hà Nội lại chạy sang Bắc Kinh mà mình
từng coi là kẻ thù kể từ cuộc chiến biên giới 1979, để khấu đầu tạ tội, tái
nhận giặc làm cha, xin nối lại mối bang giao, tình hữu nghị (1990). Thế là Tàu
cộng lợi dụng cơ hội để biến quan hệ đồng chí anh em thành quan hệ chủ tớ, đại
quốc chư hầu. Tại Hội nghị Thành Đô, các tên cáo già Giang Trạch Dân và Lý Bằng
đã ra oai trước những chú cừu non Đỗ Mười, Nguyễn Văn Linh, Phạm Văn Đồng và
biến ba tên này thành đám đồng lõa, tay sai cho cuộc xâm lấn ngày càng sâu
rộng, tặng cho Hà Nội vòng kim cô 16 chữ vàng ngày càng siết chặt đầu dân Việt
và bảng mật ước ghê gớm ngày càng ngoạm dần đất Việt (xem dưới).
Và đó là Hiệp ước phân định biên giới năm 1999
nuốt trọn Ải Nam Quan, 2/3 thác Bản Giốc, gần 1000 km2 đất liền; Hiệp ước phân
định lãnh hải năm 2000 triều cống cho Tàu trên dưới 10.000 km2 vịnh Bắc bộ;
Tuyên bố Việt-Trung năm 2001 rồi 2008 (do Nông Đức Mạnh) cho Tàu cộng vào yếu
huyệt Tây Nguyên di dân, ém quân, cấy người qua vỏ bọc khai thác bauxite. Tuyên
bố tai hại này được Nguyễn Tấn Dũng biến thành hiện thực qua Quyết định số 167
ngày 01-11-2007, cho phép các nhà thầu TQ thực hiện dự án kéo dài từ 2007 đến
2025. Và đó là việc để cho thường dân Tàu đi vào VN sinh sống, lập làng xã, xây
phố thị từ Nam chí Bắc; để cho thương lái Tàu đi vào VN lường gạt nông dân, phá
hoại nông nghiệp khắp nơi mọi chốn; cho chuyên gia Tàu đi vào VN trúng thầu đến
90% các công trình xây dựng cơ bản (đường, điện); cho doanh nhân Tàu thao túng
nền kinh tế tụt hậu và giết chết các công ty xí nghiệp èo uột của dân Việt.
Trên mặt chính trị và văn hóa, Tàu cộng không
ngừng khống chế Việt cộng, lèo lái Bộ chính trị, xâm nhập Trung ương đảng để
thảo ra Cam kết hợp tác toàn diện tháng 2-2011; đẻ ra nhiều kế hoạch làm lợi kẻ
thù như cho Tàu cộng thuê mấy trăm ngàn hecta rừng quốc phòng, nhiều vị trí
chiến lược như Vũng Áng, Cửa Việt, Hải Vân, Cam Ranh; tạo ra nhiều nội ứng cho
giặc như phó thủ tướng gốc Tàu Hoàng Trung Hải; tung ra những đòn tàn bạo trấn
áp các cuộc xuống đường chống Tàu, những đòn bắt bớ kết tội các công dân lên
tiếng tố Tàu; soạn ra những sách vở, tài liệu làm nhân dân quên đi hiểm họa Tàu
trong quá khứ lẫn hiện tại; và gần đây nhất là lập ra viện Khổng Tử (đang lúc
trên thế giới ngày càng xóa sổ nó) để tuyên truyền cho chính sách Tàu.
Để kết luận về những gì được mất sau 65 năm
bang giao Trung-Việt, tưởng không có gì hơn là nhắc đến bài viết mới đây của
đại tá Phạm Quế Dương, “VN sẽ là Quốc gia tự trị hay là một tỉnh của
TQ?”. Trong bài này, vị sĩ quan phản tỉnh viết: “theo tài liệu được
tiết lộ bởi Thiếu tướng Hà Thành Châu, Chính ủy Tổng cục công nghiệp Quốc
phòng, tỵ nạn chính trị tại Hoa Kỳ từ ngày 08-4-2013, phải chăng tại cuộc họp
tại Thành Đô năm 1990, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh đã khấu đầu trước Đặng Tiểu
Bình: “Nhờ TQ mà Đảng CSVN mới nắm được chính quyền, mới thắng được đế quốc
Pháp và đế quốc Mỹ, diệt được bọn tư bản phản động. Công ơn TQ to lắm, bốn biển
gộp lại cũng không bằng. Do thế, nhà nước VN đề nghị TQ bỏ qua hiểu lầm, xóa bỏ
các bất đồng đã qua. Phía VN sẽ làm hết sức mình để vun bồi tình hữu nghị lâu
đời vốn sẵn có giữa hai đảng do Mao Chủ Tịch và Hồ Chủ tịch dày công xây dựng
trong quá khứ. VN sẽ tuân thủ đề nghị của TQ là cho VN được hưởng “Quy chế tự
trị trực thuộc chính quyền trung ương Bắc Kinh” như TQ từng dành cho Nội Mông,
Tây Tạng, Tân Cương, Quảng Tây”. Phải chăng có kế hoạch sáp nhập VN vào TQ
dự kiến qua ba giai đoạn: Giai đoạn 1: 15-7-2020: Quốc gia tự trị; Giai đoạn 2:
05-7-2040: Quốc gia thuộc trị; Giai đoạn 3: 05-7-2060: Tỉnh Âu Lạc.
Phải chăng đó sẽ là thành quả bang giao
Trung-Việt được làm nên bởi những kẻ cũng da vàng máu đỏ, cũng con Hồng cháu
Lạc, nhưng chưa bao giờ có ý thức quốc gia, tự hào dân tộc và tình nghĩa đồng
bào? Hỡi quốc dân đất Việt, còn đợi gì nữa?
BBT
Xã
luận bán nguyệt san Tự do Ngôn luận số 211 (15-01-2015)
No comments:
Post a Comment