Việt Nam






Tuesday 29 December 2015

Một số tư tưởng của người Nga trong giai đoạn Perestroika

 

Một số tư tưởng của người Nga trong giai đoạn Perestroika

Sun, 12/27/2015 - 00:06 — nguyenthituhuy
Thời điểm này, ngay trước đại hội XII của Đảng cộng sản Việt Nam, những người Việt quan tâm đến tương lai của cộng đồng chung và tương lai của bản thân mình xét trong tương quan với cộng đồng, cũng như tương lai của các thế hệ con cháu, có lẽ đều tự đặt cho mình câu hỏi : Việt Nam có thể tiến hành những cải cách chính trị căn bản để phát triển, để bảo tồn độc lập dân tộc và chủ quyền lãnh thổ ?

Ở một thời điểm như vậy, có lẽ cần tìm hiểu thấu đáo những gì mà người Nga đã làm để tiến hành cải cách trong giai đoạn Perestroika, giai đoạn mà nước Nga biết đến một sự thay đổi căn bản trong cấu trúc chính trị xã hội, đặt nền móng cho sự hình thành một nước Nga dân chủ.

Tổng công trình sư của Perestroika, như tất cả chúng ta đều biết, là Mikhail Gorbatchev, người được đánh giá là không chỉ làm thay đổi nước Nga, mà còn « làm thay đổi số phận của cả hành tinh chúng ta », như nhận định của Andrei S. Gratchev. 

Tuy nhiên, perestroika không thể tiến hành nếu không có một bộ phận lớn các trí thức và các nhân vật chính trị ủng hộ. Trong số những người sát cánh bên Gorbatchev, có Vadim Medvedev, uỷ viên Bộ Chính trị, Tringuiz Aïtmatov, nhà văn, tác giả của những tác phẩm nổi tiếng đã được dịch và được độc giả Việt Nam yêu mến (Truyện núi đồi và thảo nguyên, Cây phong non trùm khăn đỏ, Và một ngày dài hơn thế kỷ, Con tàu trắng, Djamila), Tatiana Zaslavskaia, nhà xã hội học, Otto Latsis và R. Simonian, nhà kinh tế học…

Dưới đây xin dịch giới thiệu một số đoạn thể hiện những tư tưởng quan trọng của một số người đã tham gia thực hiện công cuộc cải cách ở nước Nga.

1/ Ngày hôm nay, nhiệm vụ chính của chúng ta là xây dựng đời sống tinh thần cho các cá nhân, trong khi tôn trọng đời sống nội tâm của họ và trao cho họ sức mạnh đạo đức. Chúng ta tìm cách khởi động tất cả mọi tiềm năng trí tuệ của xã hội chúng ta, tất cả mọi tiềm năng văn hoá, để tạo ra các cá nhân năng động về mặt xã hội, phong phú về tinh thần, công chính và có lương tâm. Một con người cần biết và cảm nhận được rằng những người khác cần đến sự đóng góp của mình, rằng phẩm giá của mình không bị coi rẻ, rằng mình được đối xử với sự tin tưởng và tôn trọng. Nếu một người nhận ra những điều đó, anh ta sẽ có khả năng thực hiện rất nhiều việc. (Gorbatchev, Perestroika (bản dịch tiếng Pháp), Flammarion, 1987, tr.36)
2/ Cải cách(Perestroïka), điều đó có nghĩa là loại bỏ sự suy thoái đạo đức xã hội chủ nghĩa khỏi xã hội, thực sự thi hành các nguyên tắc của công lý xã hội. Điều đó có nghĩa là lời nói phải tương ứng với việc làm, các quyền phải đi đôi với nghĩa vụ. Đó là tôn trọng lao động lương thiện và lao động chất lượng cao, đó là vượt lên trên các xu hướng cào bằng về lương và về tiêu thụ. (Gorbatchev, Perestroika (bản dịch tiếng Pháp), Flammarion, 1987, tr.44)
3/ Cải cách đã mang lại những nhiệm vụ mới cho nền chính trị của chúng ta, và cho suy tư của chúng ta về xã hội. Trong số các nhiệm vụ đó, có nhiệm vụ phải chấm dứt sự trì trệ tư duy của xã hội, để mở ra cho xã hội những phạm vi rộng lớn hơn của tư duy và để khắc phục triệt để những hậu quả của sự độc quyền về lý luận, điển hình cho thời kỳ tôn thờ lãnh tụ. (Gorbatchev, Perestroika (bản dịch tiếng Pháp), Flammarion, 1987, tr.62)
4/ Chính là trong sự minh bạch (glasnost) mà bầu không khí mới mẻ này được thể hiện một cách sống động nhất. Chúng ta muốn càng phải minh bạch hơn nữa trong lĩnh vực công và trong mọi lĩnh vực của đời sống. Mọi người cần phải có ý thức về những gì là tốt và những gì là xấu, để làm tăng thêm điều tốt và chống lại điều xấu. (Gorbatchev, Perestroika (bản dịch tiếng Pháp), Flammarion, 1987, tr.103)
5/ Điều cốt yếu, đó là phải đối diện với sự thật. Lénine nói : « Cần có nhiều ánh sáng hơn nữa ! » Đảng cần phải biết hết mọi điều. Hơn bao giờ hết, chúng ta không cần đến những góc tối tăm nơi sinh sôi ẩm mốc, nơi trú ngụ của tất cả những gì phát triển một cách lén lút mà chúng ta đang bắt đầu cuộc đấu tranh kiên quyết chống lại chúng. Vì thế chúng ta cần có nhiều ánh sáng hơn nữa.
 Ngày nay, minh bạch chính là sự phản ánh một cách thuyết phục bầu khí quyển tinh thần và đạo đức bình thường trong một xã hội, bầu khí quyển bình thường này sẽ giúp cho mọi người hiểu rõ hơn những gì đã diễn ra trong quá khứ, và những gì đang diễn ra trong hiện tại. Cũng là để hiểu rõ chúng ta đấu tranh vì cái gì, kế hoạch của chúng ta là như thế nào, và trên cơ sở sự thấu hiểu này mà tham gia một cách có ý thức vào nỗ lực tái cấu trúc [xã hội].
Dân chủ hoá và những thay đổi về xã hội và kinh tế có được động năng phần lớn nhờ vào việc chúng ta tăng cường sự minh bạch. Chắc chắn chính sách của Đảng là cơ sở của quá trình này. (Gorbatchev, Perestroika (bản dịch tiếng Pháp), Flammarion, 1987, tr.103)

6/ Các công dân càng ngày càng tin rằng minh bạch là một hình thức kiểm soát công được thực thi đối với các hoạt động của mọi tổ chức chính phủ, không có ngoại lệ, và là một phương tiện mạnh mẽ để sửa chữa những thiếu sót. Kết quả là đạo đức tiềm tàng của xã hội chúng ta đã được hồi phục. Lý tính và lương tâm bắt đầu lấy lại lợi thế so với sự thụ động và thờ ơ vốn từng làm xơ cứng trái tim chúng ta. Đương nhiên, nếu chỉ biết và nói lên sự thật thì chưa đủ. Điều quan trọng là, từ nhận thức và hiểu biết về sự thật, cần phải đi tới hành động. (Gorbatchev, Perestroika (bản dịch tiếng Pháp), Flammarion, 1987, tr.104)

7/ Nền tảng của cải cách kinh tế là ở sự sáng tạo và tăng cường các tác nhân kinh tế nhằm thúc đẩy sự tăng trưởng sản xuất, sự hoàn thiện về chất lượng, trên cơ sở đẩy nhanh tiến bộ khoa học và kỹ thuật. Nhưng điều căn bản, chắc chắn đó là việc tái cấu trúc các quan hệ sở hữu, loại bỏ sự tha hoá của con người khi nó có dịp sử dụng tài sản công. (Ý kiến của Medvedev, trích « Quan niệm hiện nay về chủ nghĩa xã hội », in trong Perestroïka 89, Messidor/Editions sociales, 1989, tr.66)
8/ Không có đạo đức thì khoa học sẽ chết, và điều này sẽ kéo theo sự tàn lụi của kinh tế cũng như sự xuống cấp của các mối quan hệ xã hội. Lịch sử gần đây của chúng ta đã xác nhận một cách đau đớn sự thật này : ở thế kỷ XX, không thể thực hiện các tư tưởng xã hội tốt đẹp nhất bằng các phương pháp trung cổ, độc đoán, bằng sự cưỡng bức thể xác, trong khi đó lại không hướng tới lương tâm, lý tính, ý chí tự do và quyền được lựa chọn đạo đức cá nhân của con người. Những cung điện và đền đài của tương lai không thể được xây trên máu. (Phát biểu của Dimitri Likhatchev, viện sĩ Viện Hàn lâm, trích « Không có đạo đức, khoa học sẽ chết », in trong Perestroïka 89, Messidor/Editions sociales, 1989, tr.69-70)
Đến đây, không thể không liên tưởng tới tình hình Việt Nam hiện nay, không thể không viết một vài bình luận ngắn. Mới đây xuất hiện một bức thư được cho là của Thủ tướng Việt Nam đương nhiệm. Cho dù nó có phải là thư của Thủ tướng hay không thì cách thức xuất hiện của nó (công khai một cách lén lút, hay lén lút một cách công khai, muốn nói theo kiểu nào cũng cũng được ; hoàn toàn giống như tình trạng công an giả dạng côn đồ, hay côn đồ được tuyển dụng làm công an) đã không tuân theo một tiêu chuẩn đạo đức nào, không tuân theo một chuẩn mực ứng xử và chuẩn mực hành chính nào. Trái lại, một cách thức như vậy sẽ góp phần huỷ diệt đạo đức xã hội, huỷ diệt các chuẩn mực xã hội.
Cho dù người chủ trương đưa ra bức thư này là ai, thì một cách thức như vậy đối lập hoàn toàn với điều mà Gorbatchev gọi là glasnost – sự minh bạch, sự trong suốt. Bởi sự xuất hiện của bức thư đã đặt tất cả vào tình trạng mù mờ, hỗn độn, gây mất niềm tin. Sự xuất hiện của bức thư mang theo nó toàn bộ cái « góc tối tăm », như từ dùng của Gorbatchev, « nơi trú ngụ của tất cả những gì phát triển một cách lén lút».  Nó xác nhận rằng trong hàng ngũ lãnh đạo Việt Nam tồn tại một kiểu đấu đá thiếu lành mạnh. 

Kiểu đấu đá trong bóng tối này hoàn toàn khác hẳn với cạnh tranh quyền lực ôn hoà và lành mạnh trong các thể chế dân chủ, nơi các đảng phái và các cá nhân ứng cử vào các chức vụ có thể chỉ trích lẫn nhau một cách công khai, và có thể đòi đối thủ chính trị của mình giải trình, cũng một cách công khai trước dân chúng. Sự xuất hiện mù mờ của bức thư cho thấy việc thiếu minh bạch trầm trọng trong các hoạt động chính trị tại Việt Nam. 

Vì thế người dân không thể nào hiểu được một cách rõ ràng những gì đang diễn ra trong đời sống chính trị của đất nước mình. Chính trị Việt Nam thiếu chính sự minh bạch mà Gorbatchev đề cao trong quá trình cải tổ ở nước Nga. Và do vậy, xã hội Việt Nam không thể có được « bầu khí quyển tinh thần và đạo đức bình thường ». 

Vậy xã hội sẽ lấy động lực ở đâu để phát triển ?

Chúng ta cũng không thể không thấy rằng ở Việt Nam đang có sự tăng cường các biện pháp thời trung cổ, tăng cường sự độc đoán và cấm đoán, sử dụng bạo lực một cách tàn nhẫn. Liên tục hết luật sư này đến luật sư kia bị đánh, liên tục những người dân vô tội bị hành hung, bị tạt a-xit. Phải chăng máu của người dân được sử dụng để gieo rắc sợ hãi? 

Nhưng đúng như Likhatchev nói, làm sao có thể xây tương lai trên máu của dân lành ? Chúng ta sẽ còn phải trở lại với những vấn đề của Việt Nam. 

Ở đây, xin tạm dừng bài này ở câu hỏi :
Với tất cả khả năng phân tích và nhận định của mỗi người, chúng ta thử nghĩ xem, từ các chỉ dấu hiện tại, liệu trong bộ máy lãnh đạo Việt Nam có thể có những người thực sự mang tư tưởng cải cách, liệu cách tuyển dụng và sử dụng nhân sự như đang diễn ra có thể tạo điều kiện cho các cá nhân có tinh thần cải cách đứng vào hàng ngũ lãnh đạo, liệu Việt Nam có thể cải cách theo hướng tích cực, và chính quyền Việt Nam, sau đại hội XII, sẽ đưa đất nước này đi về đâu ?
Paris, 26/12/2015
Nguyễn Thị Từ Huy
__._,_.___

Posted by: Dien bien hoa binh

CS Việt Nam vẫn còn chia cách: vết thương chậm hồi phục, ít có triển vọng cho con cái của đồng minh Mỹ

 

CS Việt Nam vẫn còn chia cách: vết thương chậm hồi phục, ít có triển vọng cho con cái của đồng minh Mỹ

Tác giả: John Boudreau K Oanh Ha
Người dịch: Trần Văn Minh
Những gia đình từng là đồng minh Mỹ, bị ngăn cản, không được gia nhập Đảng Cộng sản
H1
Vũ Tiến, một sinh viên đại học tại thành phố Saigon, giữ hình ảnh của cha, người đã phục vụ trong quân đội VNCH đã từng cầm quyền miền nam từ năm 1954 đến 1975. Nguồn: Bloomberg
Là một sinh viên tốt nghiệp từ một trong những trường có uy tín nhất ở Việt Nam, Cao, 22 tuổi, dường như có một tương lai tươi sáng phía trước – nếu gạt bỏ vấn đề lý lịch sang một bên. Anh tìm thấy triển vọng về sự nghiệp của mình bị vây hãm bởi những di sản còn sót lại của một cuộc chiến đã kết thúc gần hai thập niên trước khi anh được sinh ra.
Hai người bác của anh đã phục vụ trong quân đội bị thua trận của miền Nam Việt Nam, là đồng minh của Hoa Kỳ trong suốt những gì được biết ở Việt Nam là “cuộc chiến chống Mỹ”. Sau khi đất nước thống nhất dưới sự cai trị của Đảng Cộng sản Việt Nam, mẹ của anh đã bị từ chối, không được vào học đại học vì sự liên hệ của người anh với chính quyền miền Nam. Ngay cả khi Việt Nam nới lỏng các quy định cũ trừng phạt những người có liên quan tới Việt Nam Cộng Hòa trước đây, nhiều người ở miền Nam tin rằng hệ thống vẫn ưu đãi những người có mối quan hệ với cộng sản.
H2
Cha của Vũ Tiến, bên phải, đứng cùng với các đồng đội trong quân đội Việt Nam Cộng Hòa. Nguồn: Vũ Tiến

Cao thậm chí không màng xin việc tại các công ty do nhà nước kiểm soát ở Việt Nam, là các công ty cung cấp việc làm bền vững, các khoản tiền thưởng và gia tăng cơ hội việc làm cho các thành viên gia đình. “Để có thể kiếm được việc làm trong hệ thống nhà nước, một người phải có bố mẹ hoặc người thân làm việc ở đó, vì vậy những người dân bình thường như chúng tôi không thể tới gần những công ty đó được“. 

Cao, một sinh viên tốt nghiệp trường Đại học Ngoại thương Thành phố Hồ Chí Minh, cho biết.

Thảo luận về mối quan hệ của một người với chính quyền Sài Gòn cũ là một chủ đề nhạy cảm và Cao yêu cầu chỉ sử dụng tên họ của mình. Cuối cùng, anh tìm được việc làm tại một công ty bất động sản tư nhân. “Nếu công ty nhà nước quan tâm đến lý lịch gia đình của tôi, chắc chắn tôi sẽ thất bại”, anh nói.

H3
Quân đội Cộng sản tấn công dinh tổng thống ở Sài Gòn, đánh dấu sự kết thúc chiến tranh vào ngày 30-4-1975. Ảnh: Jean-Claude Labbe/Gamma-Rapho via Getty Images

Cuộc chiến bên trong
Kinh nghiệm của anh phản ánh một thực tế kinh tế đối với người dân miền Nam 40 năm sau khi quân đội cộng sản thống nhất đất nước – một sự mỉa mai vô cùng tận. Ngay cả khi mối quan hệ giữa Hoa Kỳ và Việt Nam đã cải thiện đáng kể từ khi quan hệ ngoại giao đầy đủ được khôi phục vào năm 1995, các vết thương xã hội bên trong chưa hoàn toàn bình phục từ cuộc chiến huynh đệ tương tàn, đã giết chết khoảng 3 triệu người Việt.

Việt Nam vẫn là một quốc gia phân biệt giai cấp, trong đó truyền thống phân biệt đối xử đối với các cựu đồng minh của Mỹ đang kềm hãm nền kinh tế, bằng cách loại trừ một số người giỏi và thông minh nhất nước, ra khỏi những vị trí hàng đầu tại các công ty nhà nước và chức vụ chính quyền. Mối căng thẳng chiến tranh chưa giải tỏa tại quốc nội cũng xua đuổi đầu tư tiềm năng và chuyên môn cần thiết của nhiều người Việt Nam ở nước ngoài.

Cộng đồng người Mỹ gốc Việt, với con số đông 1,8 triệu người, là nhóm cộng đồng hải ngoại lớn nhất bên ngoài quê hương, bị chia rẽ trong mối liên hệ với chế độ cộng sản. Nhiều người không muốn đầu tư tiền và khả năng chuyên môn về quê hương vì chính quyền vẫn nhìn họ dưới con mắt ngờ vực, ông Nguyễn Thịnh cho biết, là người đã bỏ sự nghiệp ở Silicon Valley để thành lập một công ty phần mềm tại thành phố Hồ Chí Minh.
Ông nói: “Trừ khi các cộng đồng ở nước ngoài thấy một vài nỗ lực hòa giải, Việt Nam sẽ không hấp dẫn được những thành phần tinh túy nhất ở nước ngoài. Rất nhiều lần, người Việt nước ngoài không được đối xử công bằng, chứ đừng nói đến được hoan nghênh ở đây“.
Một trở ngại lớn cho phát triển kinh tế của Việt Nam là sự thiếu hụt kỹ năng bởi vì hệ thống đại học của Việt Nam không đáp ứng được nhu cầu của một nền kinh tế hiện đại, Trinh Nguyễn, nhà kinh tế kỳ cựu về Á Châu đang trỗi dậy, làm cho Công ty Natixis SA có trụ sở ở Hồng Kông, nói: “Một trong những cách dễ nhất để Việt Nam lấp đầy khoảng cách này là ban hành những chính sách thu hút và giữ chân những người Việt ở nước ngoài có kỹ năng cao“.
Lập trường của Hà Nội rằng cuộc xung đột không phải là một cuộc nội chiến, mà là cuộc cách mạng chống lại Mỹ và chính quyền bù nhìn Sài Gòn, là “trở ngại lớn nhất đối với hòa giải”. Huy Đức, một cư dân đến từ Hà Nội và là tác giả sách “Bên Thắng Cuộc”, một quyển sách về Việt Nam sau khi thống nhất đất nước, nói.
Ông Đức nói: “Chế độ hiện tại này chưa từng suy nghĩ một cách nghiêm túc về vấn đề hòa giải thực sự. Họ luôn luôn khẳng định mình là kẻ thắng cuộc chiến và là bậc thầy của dân tộc“.
H4
Quốc kỳ và biểu ngữ chào mừng Đảng Cộng sản được trang trí trên đường phố Hà Nội, Việt Nam. Nguồn: Justin Mott/Bloomberg

Sau chiến tranh, các đảng viên được tin cậy của Đảng Cộng sản và gia đình của họ được tưởng thưởng với những chức vụ hàng đầu, trong khi những người Việt Nam là đồng minh của Mỹ thì bị trừng phạt và con cái của họ bị từ chối các cơ hội. Nhiều người miền Bắc đã được gửi đến miền Nam bị chinh phục. Ngày nay, chính sách đó đã góp phần vào hệ thống vững chắc, vẫn mang vẻ nghiêng về phía người Bắc và Đảng viên Cộng sản:
  • 22 trong số 25 doanh nghiệp nhà nước lớn nhất của Việt Nam có trụ sở tại Hà Nội, thủ đô của đất nước.
  • ĐảngCộng sản không chấp nhận là đảng viênnếu cha mẹ của một người (hoặc cha mẹ của người phối ngẫu) từng làm việctrong chính quyền [cũ] hoặc”quân đội của kẻ thù”.

  • Haiphần ba trong khoảng 3triệu đảngviên Cộng sảncủaViệt Namcư ngụ ở các tỉnhphía Bắccủa đất nước,từ QuảngTrịtrở ra,tính đến năm 2010, theoCarlyleThayer, giáo sư danh dựvàchuyên giavề Việt NamtạiHọc việnQuốc phòngÚcởCanberra. Miền Bắcchiếm 46%, trong số 87triệu dâncủa đất nước.
  • Khoảng 70% nội cácchính phủ hiện nay là người miền Bắc, so với 30% từ các tỉnh miền Namvà miền Trung.
Đảng Cộng sản Việt Nam, Bộ Ngoại giao và Bộ Công an đã không trả lời các câu hỏi về hòa giải trước khi bài viết này được đăng tải.
Trong một bài diễn văn nhân ngày 30 tháng 4 tại thành phố Hồ Chí Minh, đánh dấu kỷ niệm 40 năm thống nhất đất nước, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng kêu gọi người Việt tại quê hương và hải ngoại “nêu cao chủ nghĩa dân tộc, lòng yêu nước, truyền thống nhân đạo, khoan dung, không phân biệt quá khứ, vượt lên trên những khác biệt, để thật tâm hòa giải dân tộc”.

Trả thù sau chiến tranh
Sau khi bị cộng sản tiến chiếm, Sài Gòn được đổi tên là Thành phố Hồ Chí Minh và hơn 1 triệu người, gồm những người đã chiến đấu bên cạnh quân đội Mỹ hoặc phục vụ trong chính phủ Việt Nam Cộng Hòa cũ, đã bị đưa đến các trại cải tạo, theo báo cáo của Cao ủy Tỵ nạn Liên Hiệp Quốc.

Toàn bộ các gia đình, thường kéo dài đến ba thế hệ, được coi là có “lý lịch gia đình xấu” bởi vì mối liên quan của họ với chính phủ đã bị sụp đổ. Hệ thống kiểm tra lý lịch đó, vẫn còn tồn tại đến ngày nay, đã ngăn cản nhiều người không xin được việc làm hay bước vào các trường đại học. Sự đối xử khắc nghiệt góp phần vào luồng di cư của hơn 1 triệu người Việt Nam tỵ nạn.
H5
Đó là sự phân biệt đối xử khi có quy định ngăn cấm gia nhập đảng đối với những người có cha mẹ hoặc cha mẹ bên vợ, bên chồng làm việc cho chế độ cũ“, ông Vũ Tiến, người học đại học tại thành phố Hồ Chí Minh và yêu cầu không sử dụng tên đầy đủ của mình, cho biết. Cha anh phục vụ trong quân đội miền Nam, Việt Nam, và ông quyết định di cư đến một nước phương Tây vì anh thấy triển vọng kinh tế tốt hơn cho bản thân ở nước ngoài. “Đó là một chính sách bất công và vô nghĩa, từ khi chiến tranh kết thúc 40 năm trước đây“.

Bằng nhiều cách, hận thù đã dịu lại qua nhiều thập niên giữa những kẻ thù cay nghiệt một thời, và thái độ của khu vực cũng góp phần vào sự mất cân bằng chính trị và kinh tế. Con gái của ông Dũng, một người miền Nam, từng bị thương khi là một y tá Việt Cộng trong cuộc chiến, đã kết hôn với Henry Nguyễn, người Mỹ gốc Việt, người có cha từng làm việc cho chính phủ miền Nam Việt Nam. Người Việt có quan hệ với chế độ cũ hiện nay, có thể đạt được một số vị trí trong chính phủ và các doanh nghiệp nhà nước, mặc dù họ không thể giữ các chức vụ hàng đầu, ông Đức và các nhà nghiên cứu khác cho biết.

Sự phân chia giữa đảng viên miền Bắc và miền Nam gắn liền với di sản của cuộc chiến – đa số các nhà cách mạng cộng sản đến từ miền Bắc – và sự thờ ơ của người miền Nam đối với đảng, ông Thayer nói. “Điều này là khá rõ rệt. Gia nhập đảng không cần thiết đối với nghề nghiệp của họ. ‘Tôi không thể làm một công an, thì sao nào?’ Miền Bắc thắng được cuộc chiến và miền Nam thắng được kinh tế“. Ông Thayer cho biết.
H6
Nhiều sinh viên tốt nghiệp trẻ, đặc biệt là những người ở miền Nam, thích làm việc cho các công ty nước ngoài như Intel Corp và Samsung Electronics Co. Nền kinh tế phồn thịnh của Việt Nam – mà chính quyền dự báo sẽ phát triển 6,7% trong năm tới, tốc độ nhanh nhất trong 9 năm – cung cấp nhiều cơ hội nghề nghiệp ngoài khu vực nhà nước. Nhiều chuyên gia trẻ ở miền Nam cũng cho biết, họ không có ý muốn gia nhập Đảng Cộng sản.
Thành phố Hồ Chí Minh, trung tâm tài chính của Việt Nam và quê hương của những người Việt có quan hệ với chính quyền miền Nam cũ, đã làm nên gần ¼ tổng sản lượng quốc nội (GDP) của đất nước. Hà Nội, ngược lại, đóng góp 10% cho GDP.
Dù sao những thuận lợi cho kẻ chiến thắng tiếp tục làm thay đổi hình thái kinh tế, từ việc tuyển dụng các chức vụ quan chức chính phủ quan trọng, giúp định hình chính sách tài khóa, cho tới sự ưu đãi đối với các công ty nhà nước có trụ sở ở miền Bắc, là các công ty có được sự tiếp cận ưu tiên nguồn vốn từ các ngân hàng do Chính phủ bảo trợ. Các công ty nhà nước sử dụng khoảng 50% đầu tư công của Việt Nam và hút 60% các khoản vay ngân hàng của đất nước, trong khi chỉ đóng góp 1/3 cho GDP, theo số liệu của chính quyền.
H7
Những con gà chạy nhảy ngang qua một nghĩa trang đổ nát của hàng ngàn binh lính miền Nam, Việt Nam gần thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam. Nguồn ảnh: John Boudreau/Bloomberg
“Chế độ hiện tại này chưa bao giờ suy nghĩ nghiêm túc về vấn đề hòa giải thực sự”.
H8
Quân đội cộng sản vui cười, ngồi trên nóc xe tải và xe bọc thép ở Sài Gòn khi chiến tranh kết thúc vào tháng 4-1975. Nguồn: AFP/Getty Images

Vấn đề trung thành
Thuật ngữ sau chiến tranh dùng để ngăn cản sự tiếp cận vẫn là một phần của tâm lý và tiếng địa phương của Việt Nam ngày nay: các mẫu đơn chính thức về lịch sử gia đình được yêu cầu đối với các trường học và công việc, đòi hỏi người nộp đơn phải liệt kê những gì các thành viên gia đình đã làm “trước và sau ngày 30 tháng 4 năm 1975”. Cho đến hôm nay, thuật ngữ “ngụy” dùng cho “chế độ bù nhìn” vẫn còn được sử dụng thường xuyên.

Người Việt viết cho các hãng tin trực tuyến và luật sư trên mạng để hỏi xem họ có thể gia nhập Đảng Cộng sản nếu họ có người trong gia đình phục vụ chế độ “ngụy“. Một công ty luật trả lời một câu hỏi trực tuyến vào tháng 10, liệu kết hôn với một viên công an sẽ được phép, khi người phối ngẫu có quan hệ với chế độ cũ. (Luật sư trả lời rằng sẽ không được Bộ Công an cho phép). Một người yêu cầu hỗ trợ pháp lý sau khi ông bị các quan chức tỉnh từ chối việc làm, với lý do bố vợ của ông là một nhân viên kế toán trong chính quyền Sài Gòn.

“Hệ thống chính trị Việt Nam đánh giá cao sự trung thành”, ông Nguyễn Xuân Thành, một thành viên thâm niên của Đại học Hành chánh Kennedy của Harvard tại Việt Nam, có trụ sở ở Thành phố Hồ Chí Minh, cho biết. “Hiện vẫn còn mối quan tâm thực sự về những gì họ gọi là diễn biến hòa bình – giới cao cấp trong hệ thống chính quyền từ từ trở nên chống đảng và mất niềm tin vào chủ nghĩa xã hội”.

Trong khi đó, các cựu chiến binh và những người “có công với cách mạng” khác – một sự chỉ định tính anh hùng vẫn được sử dụng ngày nay – và gia đình của họ nhận được trợ cấp theo luật hàng tháng, bảo hiểm y tế và sự đối xử ưu đãi trong việc gia nhập trường học và công ăn việc làm. Cựu chiến binh cộng sản được ưu tiên khi xếp hàng lên máy bay.

Các lợi ích kinh tế
Tình cảm phổ biến về phía những kẻ chiến bại được minh họa bằng một nghĩa trang đổ nát của hàng ngàn binh lính Nam Việt Nam, gần thành phố Hồ Chí Minh. Một số ngôi mộ không còn gì hơn một đống đất và những mộ khác thiếu bia đá. Nhân viên bảo vệ sử dụng nghĩa trang để nuôi gà. Bên kia đường cao tốc gần đó, những ngôi mộ của các cựu chiến binh chiến đấu bên phía những người Cộng sản thì được chăm sóc cẩn thận và được bao quanh với những luống hoa trong “nghĩa trang liệt sĩ”.

Việc hoà giải những vết thương cũ sẽ mang lại cho nền kinh tế sức mạnh hơn nữa, ông Tương Lai nói. Ông là một giáo sư xã hội học và là đảng viên Đảng Cộng sản, là người đã từng cố vấn cho cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt. Cựu Thủ tướng trông coi việc cải cách kinh tế vào thập niên 1990, nối lại quan hệ ngoại giao với Mỹ và kêu gọi hòa giải dân tộc trong một cuộc phỏng vấn của báo chí năm 2005.

Ông Tương Lai nói: “Để hội nhập với thế giới, chính quyền Việt Nam đầu tiên cần phải hòa giải và làm bạn với những người dân mà họ coi là kẻ thù. Nếu chúng ta không có một sự hòa giải thực sự trong nước, làm sao chúng ta có thể làm điều đó với thế giới?


__._,_.___

Posted by: truc nguyen 

Ai là Thủ tướng? Ai là Chủ tịch Quốc hội?…


Ai sẽ là Thein Sein, Aung San Suu Kyi của Việt Nam?


Thứ sáu, 25/12/2015, 16:08 (GMT+7)

- Những ngày cuối năm, trong khi chủ quyền đất nước ở quần đảo Trường Sa đang bị đe dọa nghiêm trọng bởi hành vi “đảo hóa” bất hợp pháp của Trung Quốc vẫn chưa dừng lại, thì đất liền cũng không mấy lặng sóng, cả nước gần như bị cuốn vào thời kỳ “làm nhân sự”. 

Các lãnh đạo đau đầu lo lựa chọn nhân sự cho nhiệm kỳ tới, còn người dân dù không có quyền đề cử các nhân sự chủ chốt của đất nước vẫn sốt ruột, bàn tán xôn xao coi Đảng ta lựa chọn nhân sự thế nào? Ai sẽ là Tổng Bí thư? Ai là Chủ tịch nước? 

Ai là Thủ tướng? Ai là Chủ tịch Quốc hội?…



·          

·          

·          

·          

·          

Ngày trước, chúng ta chọn nhiều tướng lĩnh giỏi tham gia vào Trung ương vì nhiệm vụ lớn nhất của thời đó là đánh giặc. Nhưng giờ đây tình thế đã khác rất xa so với trước, đất nước đã mở cửa hội nhập đón vận hội mới và nhiệm vụ đặt ra cho Đại hội, cho Ban chấp hành Trung ương khóa tới là có giải quyết được tụt hậu không; đời sống nhân dân có được cải thiện không; có quan điểm rõ ràng đối với các vấn đề hệ trọng của đất nước không?… 

Muốn vậy yếu tố đầu tiên và mang tính quyết định phải đến từ con người. Nhất thiết phải chọn cho đúng người thủ lĩnh có năng lực, bản lĩnh và dũng khí để nắm giữ vận mệnh dân tộc trong bối cảnh hội nhập sâu rộng, diễn biến Biển Đông phức tạp và nội tại đất nước còn nhiều vấn đề cần giải quyết.

Đây cũng là niềm mong mỏi của nhân dân cả nước trước thềm Đại hội 12. Thời gian qua, rất nhiều cán bộ cấp cao, tướng lĩnh qua các thời kỳ đã thẳng thắn bày tỏ nguyện vọng mong Đảng sáng suốt chọn cho được người tài giỏi vào Trung ương để chèo lái vận mệnh đất nước, chỉ đạo được cấp dưới và ổn định được lòng dân. Và như nguyên Phó Ban Tổ chức Trung ương Nguyễn Đình Hương đã nói: “Giỏi ở đây không phải giỏi ồn ào, giỏi lý thuyết mà phải giỏi về kinh tế, đầu tư. Chứ chả giỏi cái gì, lúc đó vào Trung ương lại trở thành sáng cắp ô đi tối cắp về rất có hại cho đất nước”. 

Ông Hương đặc biệt nhấn mạnh tiêu chí: “Người được lựa chọn phải mạnh dạn trong ‘phất cờ’ đổi mới. Nếu vẫn giữ khư khư lấy cái bảo thủ, không dám đổi mới thì không bao giờ phát triển được. Cái này phải thẳng thắn chỉ ra, không giấu giếm nữa”.

Chọn người thủ lĩnh có năng lực, bản lĩnh và dũng khí để chèo lái vận mệnh đất nước, chỉ đạo được cấp dưới và ổn định được lòng dân.
Chọn người thủ lĩnh có năng lực, bản lĩnh và dũng khí để chèo lái vận mệnh đất nước, chỉ đạo được cấp dưới và ổn định được lòng dân.

Thẳng thắn và mạnh mẽ nói ra những suy nghiệm từ lâu của mình đâu chỉ có nguyên Phó Ban Tổ chức Trung ương. Cách đây không lâu, ông Võ Việt Thanh (Nguyên là Uỷ viên Trung ương Đảng, Trung tướng Thứ trưởng Bộ Công An, nguyên chủ tịch UBND TP.HCM) cũng đã khẳng định điều đó trên báo Tuổi trẻ: “Nên chọn người có dũng khí, quyết đoán để trong lúc cần sự quyết liệt họ sẽ có được quyết định có lợi cho quốc gia, dân tộc. 

Không nên chọn những người bảo thủ giáo điều, nói nhiều làm í, không dám đột phá. Những cán bộ như vậy chức quyền họ càng cao thì tác hại cho dân cho nước sẽ càng nhiều“. Một vị tướng khác,ông Lưu Phước Lượng (nguyên phó Trưởng Ban chỉ đạo Tây Nam Bộ) nhấn mạnh: “Chúng ta nhất thiết phải chọn được những người lãnh đạo có dũng khí và trình độ, có bản lĩnh chính trị để có những quyết định đột phá cho tương lai”.

Đặc biệt trong phát biểu của mình trước báo giới, Trung tướng Lượng đã thắng thắn nêu rõ một thực trạng đáng buồn tồn tại bấy lâu đó là: “Lâu nay, có cán bộ bị những giáo điều hằn sâu trong nhận thức, có người nhận ra nhưng lại ngán ngại vượt qua. Lại có người vượt qua thì bị quy chụp, bất chấp thực tiễn đang thay đổi và nguyện vọng quần chúng đang sục sôi. Đó cũng là nguồn gốc, nguyên cớ dẫn đến sự tụt hậu và tụt hậu ngày càng xa của đất nước, dân tộc chúng ta“.
Rõ ràng là đã đến lúc những tiếng nói vốn rất thận trọng và cân nhắc khi đề cập đến đường lối và lựa chọn nhân sự đã không thể không lên tiếng. Tin rằng đa số thầm lặng tán đồng rồi cũng sẽ không còn im lặng được nữa, vì non sông đất nước và nhân dân đang mong mỏi họ lên tiếng. Nhất định không để sự giáo điều, trì trệ  và sự ảo tưởng sức mạnh trong suy nghĩ của những “chính trị gia salon” đè lên lợi ích dân tộc.

Chỉ mới đây thôi, cả thế giới phải ngỡ ngàng khâm phục bản lĩnh và dũng khí của những nhà lãnh đạo đất nước Myanmar trong cuộc bầu cử vừa qua ở nước này. Với chiến thắng ngoạn mục thuộc về bà Aung San Suu Kyi -người đại diện cho khát khao dân chủ và ước vọng thoát nghèo của người dân Myanmar. Rất nhiều người ca ngợi bà Aung San Suu Kyi là vĩ đại, nhưng bên cạnh đó Tổng thống đương nhiệm Thein Sein và các tướng lĩnh quân đội đứng sau lưng hậu thuẫn ông cũng xứng đáng là anh hùng dân tộc, biết gác lại lợi ích riêng vì tương lai của đất nước.

Trông người mà ngẫm đến ta. Trong tình thế ngặt nghèo hiện nay khi mà Biển Đông đang dậy sóng, nội bộ còn nhiều vấn đề cần giải quyết chúng ta đã làm được gì? Liệu ai sẽ đủ dũng khí gác lại lợi ích riêng vì tương lai đất nước để trở thành Thein Sein của Việt Nam? Ai có đủ bản lĩnh trở thành bà Aung San Suu Kyi để cùng với nhân dân, với đất nước tiến lên?. Còn nếu cứ tiếp tục đặt việc bảo vệ sinh mạng chính trị của mỗi cá nhân lên trên lợi ích quốc gia, dân tộc sẽ chỉ làm giảm thêm niềm tin của nhân dân mà thôi.
Bạn đọc Văn Dân
__._,_.___

Posted by: truc nguyen 

Sunday 27 December 2015

MỘT CÂU HỎI ĐÃ CŨ: HỒ CHÍ MINH RA ĐI CỨU NƯỚC HAY KIẾM CƠM?

MỘT CÂU HỎI ĐÃ CŨ: HỒ CHÍ MINH RA ĐI CỨU NƯỚC HAY KIẾM CƠM?
 người lính già oregon 

Câu trả lời đã nằm vững chắc như tảng đá trong lá đơn xin học Trường Thuộc Địa Pháp của anh bồi trên tàu Amiral Latouche Tréville tên Nguyễn Tất Thành, alias Nguyễn Ái Quốc, alias Hồ Chí Minh, alias “Bác Hồ vĩ đại vô vàn kính yêu” của bọn Cộng Phỉ hiện nay. Năm 1983, giáo sư Nguyễn Thế Anh và nhà sử học Chánh Đạo, tức Vũ Ngự Chiêu, tức nhà văn Nguyên Vũ1 , tình cờ bắt gặp tại Văn Khố Đông Dương ở Aix-En-Provence và kho tài liệu trường Thuộc Địa, Paris, hai lá đơn viết tay của Nguyễn Tất Thành xin vào học Trường Thuộc Địa Pháp. 

Một lá gửi cho ông Bộ trưởng Thuộc Địa, lúc ấy, tôi nghĩ, là Albert Lebrun, căn cứ theo ngày tháng ghi trong lá đơn của Thành (15/9/1911) và nhiệm kỳ của ông Bộ trưởng (27/6/1911 - 12/1/1913), và một lá (sao y bản chánh, chỉ đổi tên người nhận, gọn hơn vì bỏ một vài chi tiết nhỏ2 ) gửi cho Tổng thống Pháp, bấy giờ là Armand Fallières, nhiệm kỳ 18/2/1906 - 18/2/1913. 

Nhưng tôi không tin Nguyễn Tất Thành, khi ấy, biết được tên của hai vị này, vì nếu biết, theo cách thức viết công thư, anh ta đã phải ghi tên của hai vị kèm với chức tước. Ngoài ra, trong cả hai lá đơn, Nguyễn Tất Thành rất hà tiện về dấu chấm, dấu phẩy sau hoặc giữa mỗi câu –điều rất quan trọng trong cách hành văn Pháp. Cũng không thèm ký tên, không ghi trình độ học vấn, không đính kèm bằng cấp –mà anh ta làm sao có được? 

Sao y đơn viết tay (có bốn dấu phẩy, không dấu chấm nào) của Nguyễn Tất Thành: Marseille le 15 Septembre 1911 Monsieur le Président de la République J’ai l’honneur de solliciter de votre haute bienveillance la faveur d’être admis à suivre les cours de l’Ecole Coloniale comme interne Je suis actuellement employé à la Compagnie des Chargeurs Réunis “Amiral Latouche Tréville” pour ma substance Je suis entièrement dénué de ressources et avide de m’instruire. Je désirerais devenir utile à la France vis à vis de mes compatriotes et pouvoir en même temps les faire profiter des bienfaits de l’Instruction Je suis originaire de la province de Nghê An en Annam En attendant une réponse que j’espère favorable, agréez, Monsieur Le Président, l’assurance de ma reconnaissance anticipée Nguyễn Tất Thành, né à Vinh en 1892, fils de Mr. 

Nguyễn Sinh Huy (sous-docteur es- lettres) Etudiant français quốc ngữ caractères chinois Bản dịch theo nguyên bản bởi Người Lính Già Oregon Marseille ngày 15 tháng chín 1911 Kính thưa Tổng Thống Cộng Hòa Tôi có vinh hạnh khẩn cầu Ngài ưu ái cho tôi được nhận vào học tại Trường Thuộc Địa với tư cách nội trú Hiện nay tôi là nhân viên của hãng Chargeurs Réunis “Amiral Latouche Tréville” để mưu sinh Tôi hoàn toàn không có tài sản và ham muốn học hỏi. 

Tôi ước ao trở thành hữu ích cho nước Pháp đối với đồng bào của tôi đồng thời có thể giúp họ lợi dụng những lợi ích của Học Vấn Tôi quê Nghệ An, Trung Kỳ Trong khi chờ đợi một sự trả lời mà tôi hy vọng là thuận lợi, Ngài hãy nhận nơi đây lòng biết ơn trước của tôi Nguyễn Tất Thành, sinh tại Vinh năm 1892, con trai ông Nguyễn Sinh Huy (phó tiến sĩ văn chương), học tiếng Pháp, quốc ngữ và chữ Nho Lá đơn, đóng dấu nhận ngày 20/9/1911 bởi văn phòng Tổng thống Pháp, nằm dưới lớp bụi thời gian suốt 72 năm (1911-1983), cũng như huyền thoại ra đi tìm đường cứu nước của Hồ Chí Minh, đã bị lôi ra ánh sáng, gây ngỡ ngàng thích thú cho nhiều người quốc gia muốn đi tìm bằng chứng của sự thật, hoặc trong trường hợp này, của sự dối trá. 

Một khám phá “vĩ đại” bất ngờ, “cực kỳ” quan trọng, đã đập vỡ bức tường đen kiên cố che giấu, qua bao năm, cái lý lịch tối om của một anh bất tài vô tướng, vô nghề, vô sản, vô gia đình, vô lý tưởng, nghèo đói, phải tha phương cầu thực, nhưng lại được bọn đệ tử cuồng tín từ Nguyễn Khánh Toàn đến Trường Chinh, từ Tố Hữu đến Phạm Văn Đồng, cùng một phường khố rách áo ôm, bồng bế tung hê và đút ống đu đủ thổi lên tận mây xanh. 

Hồ Chí Minh, dĩ nhiên, tưởng không ai có thể biết, đã giấu nhẹm, kể cả với những đồng chí thân tín nhất, về việc này, cho đến khi lẳng lặng vào nằm trong lăng, hy vọng thời gian sẽ xóa nhòa chứng tích. Đám đồ đệ ngây ngô không biết, hoặc biết mà giả vờ ngây ngô, nên cứ theo sách tự bơm của Bác (Trần Dân Tiên) mà rêu rao rằng Bác qua Pháp để trở về cứu nước thật 3 . 

Một vài nghiên cứu gia Mỹ, Pháp thân Cộng cũng biết (tại sao không?), trước cả hai ông Vũ Ngự Chiêu và Nguyễn Thế Anh, về sự hiện hữu của hai lá đơn, nhưng giữ im lặng, cho đến khi hai ông phanh phui chúng ra4 . 

Đặc biệt, tác giả Pháp, Christiane Pasquel Rageau, một nữ tín đồ tôn sùng Hồ Chí Minh vô điều kiện, đã viết quyển Ho Chi Minh trong đó bà ta, mặc dù là một nhân viên Thư viện Quốc gia Paris có nhiều cơ hội tìm tòi, tra cứu hai lá đơn ấy, cũng đã lờ đi, không nhắc nhở5 . Cho đến thời đại internet thì không còn gì có thể giấu dưới ánh mặt trời. Trên sách vở, báo giấy và báo mạng, người ta thấy đầy dẫy những sao bản hai lá đơn viết tay và các thư khác của Hồ Chí Minh, kể cả những bức thư tình, những thư từ qua lại của các viên chức Pháp, những tài liệu khui ra việc Hồ Chí Minh đi Pháp kiếm ăn, trình độ Pháp ngữ của ông ta v.v..., trong số có tác phẩm của sử gia Trần Gia Phụng, theo thiển ý, được viết rõ ràng, với đầy đủ sử liệu, một cách khoa học và thuyết phục nhất 6 . I. Phản ứng của VC về lá đơn của Nguyễn Tất Thành : Rồi biết không thể giấu được nữa, đám đệ tử mới đây đành phải thú nhận, nhưng do thói quen hàm hồ và ăn gian nối dối trước sự thật, bọn họ vẫn cố ngụy biện, cãi chày cãi cối. Trường hợp lá đơn này, tôi xin mở ngoặc lớn, cũng giống như chuyện Hồ Chí Minh có vợ, có con. 

Trước những tài liệu vô phương chối cãi, bọn họ mới trơ tráo lên tiếng bênh Bác rằng đó là chuyện thường tình của con người 7 . Nghe mà thấy ứa gan, muốn chửi thề mấy tiếng. 

Trở lại chuyện lá đơn. a) Cũng vậy. Giáo sư VC Bùi Đình Phong, chẳng hạn, ngày 3/1/2010 (gần một năm sau DVD “Sự thật về Hồ Chí Minh” của Nhóm Linh Mục Nguyễn Hữu Lễ phát hành, tháng 7, 2009, và 27 năm sau ngày hai ông Nguyễn Thế Anh và Vũ Ngự Chiêu khám phá và công bố hai lá đơn, tháng 6, 1983) đã viết một bài có đoạn như sau: “Chúng ta hoàn toàn không giấu giếm sự kiện này. Hơn hai mươi năm trước, Giáo sư Sử học Đinh Xuân Lâm đã có bài viết với tiêu đề: “Cần làm sáng tỏ một số điểm xung quanh lá đơn xin học của Nguyễn Tất Thành năm 1911”, đăng trong Tạp Chí Cộng sản, số 5-1987.

 Vấn đề là ở chỗ, hiện nay một số người vẫn nghĩ rằng chúng ta không công bố lá đơn này, và quan trọng hơn là nhiều người không hiểu đúng việc làm của Nguyễn Tất Thành. Còn các thế lực thù địch thì cố tình bóp méo sự thật lịch sử” 8 . 

Bùi Đình Phong nói láo không có căn: Lá đơn “bị” khám phá và phổ biến rộng rãi năm 1983, bài của Đinh Xuân Lâm đăng trong Tạp Chí Cộng sản năm 1987, nghĩa là bốn năm sau, vậy mà y dám nói “chúng ta hoàn toàn không giấu giếm sự kiện này” thì con nít cũng không tin nổi. Lại nữa: ai “bóp méo sự thật lịch sử”? 

Chính y và đồng bọn! Sự thật nằm trong hai lá đơn còn nguyên si trong thư viện Pháp, bóp méo thế nào được? Sau đó Bùi Đình Phong ra sức biện hộ cho Hồ Chí Minh: “Đây [việc xin học] là cách làm chứ không phải mục đích của Hồ Chí Minh”8 . 

Y hàm ý, đại khái, Hồ Chí Minh muốn học hỏi nền văn minh của Pháp để sau này về nước giúp ích cho đồng bào. Về điểm này, bọn bồi bút VC khác, như Lữ Phương, cũng hùa theo, cho rằng lá đơn của Nguyễn Tất Thành đã “phản ánh chủ trương rất rõ của Phan Chu Trinh: phải học văn hóa khai sáng và dân chủ của Pháp để canh tân đất nước”9 . 

Lữ Phương còn viết rằng Phan Văn Trường, thuộc nhóm Phan Chu Trinh, ở Paris, đã thảo lá đơn này giùm cho Nguyễn Tất Thành, và sở dĩ Thành muốn vào học trường Thuộc Địa là để “xây dựng phong trào yêu nước ngay trong lòng thực dân” 9 . 

Nghĩa là chui vào nhà địch để diệt địch! Thế đấy! Bồi bút VC đứa nào cũng mơ ngủ, hoặc mắc bệnh tâm thần. Hai “dịch giả” Diên Vỹ và Hoài An cũng đổ thừa cho cụ Phan Chu Trinh, tội nghiệp cụ, vì lúc ấy cụ đâu đã biết tên phụ bếp trên tàu Pháp ở Marseille Nguyễn Tất Thành là đứa nào!

9 Những tên bồi bút ấy đã quên một điều quan trọng: chính Thành đã tự giác, tự khai, tự tố, nghĩa là đã nói rõ bằng giấy trắng mực đen lý do khiến anh ta phải xin vào học trường Thuộc Địa, và lại còn với tư cách interne, tức nội trú, nghĩa là miễn trả tiền ăn học. Lý do rành rành ra đó: anh ta than nghèo, không có tiền sinh sống (je suis entièrement dénué de ressources).

Nói nôm na, muốn kiếm cơm. Nhưng để đỡ ngượng, phải vớt vát bằng cái cớ “thanh cao”: muốn học hỏi (avide de m’instruire). b) Nguyễn Tất Thành còn đi xa hơn. Trong cả hai lá đơn cùng một nội dung ấy có một câu rất quan trọng mà những người quốc gia chúng ta đã phải vất vả mở mắt cho những tên bồi bút VC thấy, mà bọn họ vẫn giả mù sa mưa, không (muốn) thấy. 

Đó là câu: “Tôi ao ước trở thành hữu ích cho nước Pháp đối với đồng bào của tôi...” (Je désirerais devenir utile à la France vis à vis de mes compatriotes). Thế này là thế nào? Trường Thuộc Địa (École Coloniale) là một trường chuyên môn có mục đích đào tạo những học viên các nước bị đô hộ (Đông Dương, Phi Châu) để sau này về bản xứ trở thành những quan chức hữu ích cho thực dân Pháp, nghĩa là phục vụ mẫu quốc10, cũng giống như École Normale đào tạo những giáo sư dạy cấp trung học, và ENA (Ecole nationale d’administration) là trường đào tạo cán bộ hành chánh. 

Còn nếu muốn học để hấp thụ học thuật, văn minh của Pháp –điều mà bọn bồi bút VC vẫn dựa lên để cắt nghĩa việc anh ta xin vào École Coloniale– Nguyễn Tất Thành phải làm đơn xin vào những trường khác, thiếu gì. Viết câu trên cho Tổng thống và Bộ trưởng Bộ Thuộc Địa Pháp, rõ ràng Thành nuôi mộng làm quan cho Tây, mà làm quan là để hưởng bổng lộc, vinh hoa phú quý, là đè đầu đè cổ dân lành, giống như cha của anh ta trước kia (cho nên mới có câu “vis à vis de mes compatriotes”). 

Nếu không làm quan trong tương lai mà muốn “trở thành hữu ích cho nước Pháp” thì còn cách nào đây? Vô lẽ đăng lính khố xanh, khố đỏ? Biết rõ như thế, cho nên Bùi Đình Phong đã láu cá, cố tình lờ ba chữ à la France (= đối với nước Pháp) để dịch ăn gian, lừa bịp người dân và lũ đảng viên trong nước không có cơ hội đọc nguyên bản và một số thân Cộng hải ngoại, phần đông là trí thức, nhưng u mê, hoang tưởng, hoặc già lú lẫn, như sau: “Tôi muốn sẽ trở nên có ích đối với đồng bào của tôi...”. 

Dịch như vậy, câu đó hoàn toàn có nghĩa khác, không làm ai thắc mắc, khen ngợi là đàng khác. Và cùng với nhiều nhà nghiên cứu VC khác, Bùi Đình Phong vẫn mặt trơ mày bóng, gân cổ cãi, lại còn đem tên sử gia Pháp thân Cộng Daniel Hémery11 ra làm con ngáo ộp: “Sự thật rõ như ban ngày mà những kẻ nuôi dụng tâm xấu vẫn ác ý cố tình xuyên tạc. 

Để hiểu rõ hơn về lá đơn, hãy đọc Êmơri (Daniel Hémery) –một nhà sử học Pháp chuyên nghiên cứu và giảng dạy lịch sử cận-hiện đại Việt Nam tại Trường Đại học Pari [sic] VII, trong bài viết:“Về lá đơn xin vào học Trường Thuộc địa năm 1911 của người thanh niên Hồ Chí Minh”. Êmơri khẳng định:“Tuyệt đối không thể căn cứ vào lá đơn xin học năm 1911 để gán ghép cho Nguyễn Tất Thành ý định sau khi học xong sẽ trở thành người cộng tác với chính quyền thuộc địa”12. 

Vì Bùi Đình Phong không cho biết xuất xứ câu và bài của Hémery (đăng ở đâu, khi nào, nguyên văn) và y có thể hoặc phịa ra, hoặc cố tình dịch sai, chúng ta không cần bàn thêm. II. Trình độ Pháp ngữ trong lá đơn: Ai cũng biết lá đơn của Nguyễn Tất Thành bị bác và Bộ Thuộc Địa lấy cớ là những thí sinh phải được Phủ Toàn quyền Đông Dương giới thiệu và gửi sang, nghĩa là anh bồi tàu Nguyễn Tất Thành đã muốn làm quan tắt bằng cách nộp đơn tắt. Sau đó Thành phải nhờ người anh làm ở Toà khâm sứ Pháp can thiệp, nhưng không thành công13. Đó là một cách nói. Sự thật có lẽ khác, nếu hoàn toàn chỉ dựa trên khả năng Pháp ngữ hạn hẹp của Nguyễn Tất Thành, một người chưa học lên bậc trung học. 

Trong khi đó, bọn đệ tử bồi bút, như Ngô Trần Đức và Lê Công Thành, không tiếc lời ca tụng trình độ Pháp văn và các ngoại ngữ khác của “Người” (tức Nguyễn Tất Thành, Hồ Chí Minh) mà bọn họ cho là siêu tuyệt, bởi lý do [rất buồn cười] “Người” đã học tiếng Pháp ở cấp primaire (tiểu học) và làm việc trên tàu buôn Tây và hằng ngày nói chuyện bằng tiếng Tây [bồi, dĩ nhiên] với những anh bồi đồng nghiệp14. Ngược lại, những độc giả và sử gia hải ngoại đều thấy rõ trình độ Pháp ngữ của Nguyễn Tất Thành trong lá đơn rất kém. Nhưng chưa ai phân tích nó kém ở chỗ nào15. Tôi xin phép mạo muội phụ họa dẫn giải, không phải để khoe mẽ, bàn chuyện ruồi bu, hoặc chẻ sợi tóc làm tám, nhưng cốt chứng minh cho bọn bồi bút VC trong nước cũng như tay sai VC hải ngoại hiểu lý do thật tại sao lá đơn bị bác và việc cho Nguyễn Ái Quốc đã viết những bài báo bằng Pháp ngữ chống chế độ thực dân tại Paris là bịa đặt, tưởng tượng lố bịch15. Hai lá đơn sai đủ thứ lỗi (hoặc cách hành văn không chỉnh) lớn nhỏ, khác nhau (10 cho lá đơn gửi tổng thống, 12 gửi Bộ trưởng). Những chữ viết xiên là do tôi, cốt nêu rõ các lỗi hoặc vấn đề chưa ổn. Marseille le 15 Septembrea 1911 Monsieur le Président de la Républiqueb J’ai l’honneur de solliciter de votre haute bienveillance la faveur d’être admis à suivre les cours de l’Ecole Coloniale comme interne Je suis actuellement employéc à la Compagnie des Chargeurs Réunis “Amiral Latouche Tréville” d pour ma substancee Je suis entièrement dénué de ressources et avide de m’instruiref . Je désirerais devenir utile à la France vis à visg de mes compatriotes et pouvoir en même temps les faire profiter des bienfaits de l’Instruction Je suis originaire de la province de Nghê An, en Annam En attendant une réponse que j’espère favorable, agréezh , Monsieur Le Président, l’assurance de ma reconnaissance anticipée Nguyễn Tất Thành, né à Vinh en 1892, fils de Mr. Nguyễn Sinh Huy (sous-docteuri es- lettresj ) Etudiant français, quốc ngữ, caractères chinoisk a) Đúng theo phép viết đơn, phải có dấu phẩy sau Marseille. 

Không viết hoa tên tháng (cf Le Secrétaire Idéal, Elisabeth Lange, Marabout Service, 1970, tr.150) b) Viết Monsieur le Président đủ rồi. Sau Président phải có dấu phẩy. c) employé: thường có nghĩa nhân viên văn phòng, khác với tay chân (ouvrier), ví dụ employé de banque. Có thể Nguyễn Tất Thành không hiểu nghĩa, hoặc hiểu, mà cố tình mập mờ đánh lận con đen, vì nếu viết thẳng aide-cuisinier (phụ bếp), chức vụ chính thức, sẽ ảnh hưởng đến việc xin học. d) Tên chiếc tàu không được để trong ngoặc kép. e) Lỗi (nặng) về dùng chữ: phải viết subsistance (sinh sống, sinh nhai) thay vì substance (chất, bản thể). 

Lỗi này được thấy trong cả hai lá đơn, nên không thể gọi là lỗi vô ý. Trong tờ đơn gửi Bộ trưởng Thuộc Địa, người ta còn đọc : ... pour ma substance à soi. Vô nghĩa. Tôi cố đoán Nguyễn Tất Thành muốn nói gì trong “substance à soi” mà chịu thua. f) Cách hành văn: “entièrement dénué” và “avide” về lời và ý không đi với nhau bởi conjonction (liên từ) et, cho nên muốn viết cho xuôi tai, người ta phải lặp lại je suis. “Je suis entièrement dénué de ressources et je suis avide de m’instruire”, và liên từ et trong vế thứ hai của câu và mạch văn hàm ý nhưng (mais), hơn là và. Trường hợp dùng liên từ mais, thì không cần lặp lại je suis: “Je suis entièrement dénué de ressources, mais avide de m’instruire”. g) 

Lỗi chánh tả: vis-à-vis (có hai gạch nối) h) Lỗi (nặng) văn phạm: Khi dùng gérondif (en + participe présent) En attendant... , trong trường hợp này, chủ từ của động từ chia (=động từ chính) phải là je (= tôi), ngôi thứ nhất, nhưng Nguyễn Tất Thành đã dùng agréez (= ông hãy chấp nhận, mode impératif, mệnh lệnh cách), ở ngôi thứ hai, là sai. Vì người chờ đợi câu trả lời (en attendant une réponse) là “tôi”, chứ không phải “ông”. Phải viết lại: “En attendant une réponse [...] je vous prie d’agréer ...”, tương tự câu tiếng Anh: “While waiting for your answer, I request that you accept...” chứ không phải “While waiting for your answer, accept...” i) sous-docteur: chữ này không có trong ngữ vựng Pháp. Phó bảng, trong chế độ thi cử xưa, có nghĩa tiến sĩ đậu vớt (repêché, inscrit au deuxième tableau). 

Dù vớt hay không, vẫn là tiến sĩ, nghĩa là có thể dịch : docteur mà không sợ mang tiếng ăn gian. Nguyễn Tất Thành không biết điều này. j) Lỗi chánh tả: ès lettres (è chứ không phải e, và không có gạch nối) k) Etudiant: Tại sao không viết thành một câu cho nó đường hoàng? Viết kiểu này, quả thật, là kiểu tiếng Tây bồi... tàu, nghĩa là ráp chữ. Nếu étudiant là một danh từ (nom) thì phải có en, (étudiant) en (français), v.v... Nhưng Nguyễn Tất Thành chưa bao giờ là étudiant (sinh viên đại học) thì chữ này phải hiểu là một động từ. Và nếu là một động từ dùng ở hiện tại phân từ (verbe au participe présent, nhưng tại sao phải dùng mode participe ở đây?) có nghĩa j’étudie, j’ai étudié, thì phải viết (étudiant) le (français), v.v... Chưa kể trong đơn gửi Bộ trưởng Bộ Thuộc Địa có thêm hai điều phạm nữa: 1) thay vì désirerais, Thành viết sai désirérais (không phải é mà e). 2) cuối đơn có câu “mes plus respectueux hommages” (= sự tôn trọng kính trọng nhất của tôi), nghe không ổn: trong hommage tự nó hàm chứa respectueux rồi, thêm respectueux không cần thiết. Mà nếu muốn thêm để thêm nặng ký cũng được, nhưng nên bỏ superlatif (mes) plus, quá dư, quá đáng: mes respectueux hommages. 

Hoặc viết mes hommages không thôi cũng đủ lắm rồi. 

Viết một lá đơn bằng tiếng Pháp ngắn như thế và nhiều lỗi, khuyết điểm như thế cho các viên chức cao cấp nhất của nước Pháp thì bị từ chối là phải, oan ức nỗi gì. 

Nguyễn Tất Thành bồi tàu và đệ tử bồi bút cần nhớ rằng người Pháp là chúa kỳ thị về ngôn ngữ và gia thế (không phải màu da, chủng tộc như ở Mỹ), và thi tuyển vào học các trường của Tây, dù ở Việt Nam và dù trả tiền, không phải dễ, nhất là vào thời Nguyễn Tất Thành, lại còn xin học nội trú, giống như học bổng bây giờ, càng khó gấp bội. Điều kiện tiên quyết, vô cùng quan trọng, là phải rất giỏi tiếng Pháp (như Phạm Quỳnh, dù tự học), có bằng cấp do Pháp cấp hay giấy tờ chứng minh học lực, và phải là giàu có... 

Dù là con một ông quan huyện (tiến sĩ Hán học, phạm tội đánh chết tù nhân và bị cách chức), một anh phụ bếp nghèo, trên răng dưới dép (râu), của một chiếc tàu buôn Pháp mà đòi xin học trường đào tạo các quan lại tương lai phục vụ chế độ thực dân, thì tôi không tin trong lịch sử đô hộ tại Việt Nam đã xảy ra một trường hợp nào mà người Pháp rộng lượng hoặc đặc cách chấp nhận như thế. Nguyễn Tất Thành nghèo mà ham, cứ tưởng bở, và các đệ tử tẩu hỏa nhập ma của anh ta không hiểu gì hết, tha hồ múa mép, nói hươu nói vượn, kể cả bây giờ. III. 

Lời kết: Việc Nguyễn Tất Thành xin học vào trường Thuộc Địa, per se, tự nó, không có gì là xấu, trái lại có thể rất tốt. Quả thế, theo tài liệu của sử gia Vũ Ngự Chiêu (Chú thích 1, ở dưới), một số nhân vật nổi tiếng ở Việt Nam một thời như các ông Bùi Quang Chiêu, Phan Kế Toại, Trần Trọng Kim v.v... cũng từng là học viên của trường ấy. Ngoài ra, nếu Nguyễn Tất Thành kém Pháp ngữ cũng không có gì đáng chê cười. 

Tuy nhiên, điều làm người ta khó chịu, bực mình, khiến phải cất công đi tìm, moi ra cho bằng được sự thật, hoặc sự dối trá, nằm trong hai lá đơn của Hồ Chí Minh, đó là thái độ xu nịnh và luận điệu xuẩn động, ngông cuồng của bọn đệ tử ông Hồ, trước kia và hôm nay, vừa ngu dốt vừa lố bịch vừa ngoan cố. Lúc trẻ, ông ta qua Pháp để kiếm ăn, thực sự và rõ ràng, chứ chẳng phải tìm đường cứu nước cứu non gì ráo, như những cái đầu mê sảng thiếu chất xám, đầy chất vàng kia đã bịa đặt, rêu rao. 

Và huyền thoại Hồ Chí Minh ra đi tìm đường cứu nước được bọn cuồng tín và cả chính Hồ Chí Minh, một tên đại bịp, đại gian, đại ác, dựng nên để bảo vệ sự nghiệp của ông ta, của Đảng và bộ hạ. Giữa năm 2011, Nguyễn Tấn Dũng, tên cựu du kích xã, thủ tướng thuộc loại chó nhảy bàn độc, vừa được đồng bọn tái phong chức, đã đọc trước Quốc Hội bù nhìn bài diễn văn trong đó vẫn còn cái câu mà bọn chúng thi nhau nhai đi nhai lại như những con vẹt ngu ngốc từ năm này qua năm khác: “chúng ta phải luôn học tập lời dạy và noi gương của Bác Hồ vĩ đại, vô vàn kính mến...” Không đứa nào dám bỏ Bác ra, kể cả những anh, những chị phản tỉnh cuội tại Paris, như Bùi Tín, Vũ Thư Hiên, Dương Thu Hương.... Bỏ Bác ra, bọn chúng chỉ là rắn mất đầu, dù cái đầu đã bị đồng bào hải ngoại đập giập từ khuya. Cho nên cái xác của Bác phải được giữ mãi trong lăng, mặc dầu đã thối rữa, để hễ có dịp mang ra hù dọa, nhắc nhở đồng bào và đảng viên. 

Việc Nguyễn Tất Thành, alias Hồ Chí Minh, làm đơn xin học làm quan cho Tây bị từ chối, phải đi lêu bêu kiếm sống tại London, tại Paris, và gia nhập Đệ tam Cộng sản Quốc tế, rồi về nước nhập cảng một thứ chủ nghĩa Cộng sản quái thai, quái vật, quái đản, và một thứ văn hóa bần cố nông, tiêu diệt những giá trị trí thức nhân bản và truyền thống, gieo bao nhiêu thảm họa cho con người, thú vật, cỏ cây và giết hại bao nhiêu sinh linh của nước Việt Nam tội nghiệp, những người duy tâm cho đó là sự an bài của Thượng Đế, và những người theo phái khắc kỷ chấp nhận như vận nước. Còn tôi, thực tế hơn, lại oán giận hai ông Tổng thống và Bộ trưởng Thuộc Địa Pháp. 

Đơn của Nguyễn Tất Thành có kém, sai lỗi, gia thế của anh có nghèo hèn thì hai ông cũng nên nhắm mắt cho anh ta vào học đại đi, cứ cho anh ta nuôi mộng công hầu khanh tướng đi, mất mát gì, được như vậy thì anh ta đã chẳng phải gia nhập đảng Xã Hội, rồi đảng Cộng sản Pháp, không sang Nga, rồi sang Tàu, không trở về Việt Bắc, chui rúc ở hang Pắc Pó hôi thối, nằm ôm gái dân tộc hoặc tự thêu dệt những huyền thoại lố bịch, kêu gào đánh cho Tây cút Mỹ nhào, và hôm nay nhân dân Việt Nam đã đỡ khổ xiết bao và nhớ ơn hai ông biết chừng nào. 

Bây giờ thì trễ quá rồi, hai ông ơi, và trời ơi! Nhờ các sách báo của những người quốc gia chống Cộng, nhất là DVD về Huyền Thoại Hồ Chí Minh của Nhóm LM Nguyễn Hữu Lễ, những mảng vôi trên bức tường huyền thoại nhớp nhúa đầy ảo tưởng về thân thế và sự nghiệp của Bác, kể cả tập thơ con cóc ăn cắp16 và những sách báo bằng Pháp ngữ chống thực dân do người khác viết mà Bác nhận vơ làm của mình, đã lần lượt rơi vỡ tan tành. Vậy mà vẫn chưa hết. Đó là việc Nguyễn Tất Thành đã từng là thành viên của Hội Tam Điểm Pháp (la franc-maçonnerie française, thù nghịch với đảng Cộng sản Quốc tế –điều mà sử gia Trần Gia Phụng đã tiết lộ, nhưng chưa có học giả VC nào lên tiếng) và bức hình Nguyễn Ái Quốc đứng đọc diễn văn trong Đại hội Tours tháng 12, 1920 (mà VC vô cùng hãnh diện) là giả mạo, những việc đó, tôi tin chắc bọn đệ tử VC trong và ngoài nước chưa đứa nào biết, hoặc biết mà vẫn cố bưng bít. 

CHÚ THÍCH 1
Trong cuộc phỏng vấn sử gia Vũ Ngự Chiêu về công trình nghiên cứu lịch sử liên quan đến Hồ Chí Minh (Thứ sáu, 5 tháng 11, 2010) do Nguyễn Vĩnh Châu thực hiện, ông Vũ Ngự Chiêu cho biết: “Ðầu tháng 2/1983, khi làm việc trên kho tài liệu trường Ecole coloniale, tức học hiệu huấn luyện các viên chức thuộc địa Pháp, trên đường Oudinot, quận 7, Paris, tôi vô tình khám phá ra nhiều hồ sơ học viên người Việt tại học hiệu này, như Bùi Quang Chiêu, Ðèo Văn Long, Phan Kế Toại, Trần Trọng Kim, Lê Văn Miễn, v.v... tổng cộng khoảng 97 người (CAOM (Aix), Ecole Coloniale, cartons 27, 33 & Registers). Mục đích của tôi là tìm hiểu về những viên chức thuộc địa Pháp cùng thế hệ Tây học Việt Nam đầu tiên (ngoài những người tốt nghiệp các lớp huấn luyện ở các tu viện như Trương Vĩnh Ký, Nguyễn Trường Tộ, v. v...) để dùng cho chương Biến đổi văn hóa và xã hội của luận án Tiến sĩ. Thật vô tình, tìm thấy tập hồ sơ xin nhập học nhưng không được chấp nhận của Nguyễn Tất Thành, tức HCM sau này, cùng một người bồi khác được chủ Pháp mang về Paris. Ngoài hai lá thư viết tay gửi Tổng thống Pháp và Bộ trưởng Thuộc Ðịa, đề ngày 15/9/1911 tại Marseille, còn thêm ba tài liệu của Hội đồng quản trị trường. Trong biên khảo tam ngữ Một ngôi trường khác cho Nguyễn Tất Thành (Paris: 1983) tôi đã trình bày khá rõ: Người mà chúng ta biết như HCM sau này đã rời nước không vì muốn tìm đường cứu nước, mà chỉ vì những tao ngộ bản thân (cha bị cách chức, tống giam, nên phải bỏ học nửa chừng, v. v...). 

Từ cổng hậu đóng kín của trường Thuộc Ðịa, HCM sẽ tìm thấy cánh cửa mở rộng của Ðại Học Phương Ðông của Liên Sô Nga 12 năm sau. Năm 1991, trong tập Vàng Trong Lửa, hai Giáo sư Trần Văn Giàu và Trần Bạch Ðằng đã nhắc đến tập sách nhỏ này, nhưng không nêu tên tác giả Vũ Ngự Chiêu và Nguyễn Thế Anh. Nên thêm rằng sử gia Nguyễn Thế Anh đồng ý viết chung với tôi tập sách trên, cũng như phổ biến các tài liệu trên tờ Ðường Mới, nhưng ông Anh không phải là người phát hiện những tài liệu trên. Ít tháng sau, khi tôi đang làm việc ở Aix-en-Provence, Nguyễn Thế Anh cho tôi biết hai sử gia Pháp, tức Hémery và Brocheux, tuyên bố họ đã khám phá ra tài liệu này từ trước. Tôi chẳng mấy quan tâm. Vấn đề là tại sao Hémery và Brocheux không công bố các tài liệu trên trước chúng tôi (vào mùa Hè 1983)? Và những người làm phim truyền hình chiến tranh VN cũng sử dụng tài liệu trên. Một số học giả Mỹ cho rằng khi công bố tư liệu trên, tôi đã có ý muốn discredit [hạ giá] HCM. Nhưng sự thực lịch sử chỉ là sự thực lịch sử. Ðáng trách chăng là thái độ thiếu nghiêm chỉnh và lương tâm nghề nghiệp của một số học giả (kể cả William A. Williams). Vì tư tâm hay một lý do nào đó, họ đã gạt bỏ những tư liệu đi ngược lại lập luận và diễn dịch [thiên tả] của họ. 

Ðiều này ảnh hưởng không ít đến công trình nghiên cứu của tôi. [...] Thật khó tin, nhưng có thực, là một số sách dùng dạy sử cho các lớp năm thứ nhất hay thứ hai đại học Mỹ vẫn còn ghi HCM đã rời nuớc năm 1912 để tìm đường cứu nước. Có người còn tuyên bố chẳng cần tìm hiểu thêm về HCM, dù tác phẩm của họ chứa đầy những lỗi lầm sơ đẳng về Ðảng CSVN. "As far as the Americans are concerned," người ta nói, ngần ấy kiến thức về HCM đã quá đủ. "Life goes on!" 2. Những chi tiết đó là: “substance à soi”, “mes plus respectueux hommages”. 3. 

Đọc Lịch sử Việt Nam, tập 2, Ủy ban Khoa Học Xã Hội, Hà Nội 1985, do Nguyễn Khánh Toàn chủ biên ; Chủ Tịch Hồ Chí Minh, tiểu sử và sự nghiệp, do Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Trung ương biên soạn, in lần thứ tư, nxb Sự Thật, 1975 ; Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chí Minh, Trần Dân Tiên (tức HCM), nxb Sự Thật, Hà Nội, 1976. 4. Xem chú thích 1, ý kiến của Vũ Ngự Chiêu, đoạn cuối. 5. Christiane Pasquel Rageau, Ho Chi Minh, Editions Universitaires, 1970, trong Collection Les Justes. 6. Trần Gia Phụng, Những câu chuyện Việt sử, tập 2, Toronto, 1999, tr. 306-319 : “Huyền thoại ra đi tìm đường cứu nước”, Việt sử đại cương, tập 4 (1884-1945), nxb Non Nước, Toronto, 2008, tr. 380-424: Nguyễn Ái Quốc: “Vì chủ đích kiếm sống chứ không có chủ đích chính trị, Nguyễn Tất Thành liên tục thay đổi thế đứng chính trị, tìm cơ hội tiến thân. Xin vào học trường Thuộc Địa (Paris) không được, ông theo những nhà chính trị dân tộc Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường. Từ lập trường dân tộc, ông vào đảng Xã Hội Pháp. Từ đảng Xã Hội, ông gia nhập đảng Cộng Sản Pháp, dầu ông tự nhận rằng ông không hiểu chủ nghĩa CS là gì ? Đang ở trong đảng CS Pháp, ông qua hội Tam Điểm, một tổ chức đối nghịch với đảng CS. Đang là thành viên Tam Điểm, Nguyễn Tất Thành được đại diện ĐTQTCS tuyển chọn để đưa sang Nga vào tháng 10-1922, ông liền chấp nhận ngay việc tuyển chọn này và bỏ hội Tam Điểm” (404). 7. Trường Lam, trong “Bác Hồ của chúng ta”, Talawas Bloc, 24/3/2010: “Những năm gần đây có nhiều người nói hoặc viết rằng Bác Hồ có con... Đối với cá nhân tôi và có lẽ của đông đảo người dân Việt ta, đó là điều đáng mừng. Một con người kiệt xuất mà từ giã cõi đời không để lại cho hậu thế tí di duệ nào khiến ai chẳng cảm thấy đau lòng ? [...] 

Hãy để Bác mãi mãi vĩ đại mà giản dị giữa lòng dân tộc, giữa những tâm hồn Việt Nam, trong sự kính yêu của những người dân Việt Nam.” OK. Nhưng vấn đề không nằm ở chỗ sinh lý bình thường ấy, cái tệ hại khốn nạn của Hồ Chí Minh là: - chấp nhận được thần thánh hóa bởi bộ hạ, đóng vai một tên đạo đức giả trọn đời độc thân để có thì giờ chăm lo việc nước - ông ta đã không bao giờ nhìn nhận những đứa con rơi, thậm chí còn thủ tiêu một trong những người mẹ (Nông Thị Xuân), và những con rơi này không dám nhìn nhận ông ta là cha (Nguyễn Tất Trung, Nông Đức Mạnh) - lấy cả người yêu của đồng chí (Nguyễn Thị Minh Khai), thay vợ như thay sơ-mi. 8. Bùi Đình Phong, bài đăng ngày 3/1.2010 trong mục Hồ Chí Minh toàn tập, Tác phẩm Hồ Chí Minh tiêu biểu. 

Xem thêm Đinh Xuân Lâm, Góp phần tìm hiểu cuộc đời và tư tưởng Hồ Chí Minh, nxb CTQG, 2005, tr. 273, 275. 9. Lữ Phương, “Từ Nguyễn Tất Thành đến Hồ Chí Minh”, trong tủ sách Talawas, 26.1.2007. Diên Vỹ và Hoài An, Hồ Chí Minh: Những năm tháng chưa được biết đến, dịch từ quyển Ho Chi Minh: The Missing Years của Sophie Quinn Judge, đăng trong Thư mục: Hồ Chí Minh, ngày 23-8-2009. 10. Trần Gia Phụng, Việt sử đại cương, tập 4, sđd, tr. 409, chú thích 13 11. Daniel Émery, Ho Chi Minh, de l’Indochine au Vietnam, Paris, Gallimard, 1990 12. Bùi Đình Phong, xem chú thích 8 13. Trần Gia Phụng, Việt Sử Đại Cương, sách đã dẫn, tr. 384 : “Tại Sàì Gòn, Nguyễn Tất Thành gởi thư đề ngày 31-10- 1911 cho anh là Nguyễn Tất Đạt (Cả Khiêm hay Khâm), đang làm việc tại Tòa khâm sứ Pháp tại Huế, và nhờ anh vận động xin cho Thành vào học Trường Thuộc địa”. 14. Ngô Trần Đức, “Về những bài viết ký tên Nguyễn Ái Quốc tại Pháp từ 1919 đến 1923” (Trao đổi lại với Thụy Khuê), đăng trên internet : “Vấn đề cần làm rõ là vào thời điểm đó, khả năng tiếng Pháp của anh Thành đã đạt tới trình độ nào? 

Theo tiểu sử, chúng ta biết khi ở trong nước, anh Thành đã vào học trường Quốc học Huế, đã hoàn thành chương trình lớp cao đẳng (cours supérieur). Trong lời khai với sở mật thám Huế ngày 19-3-1920, ông Nguyễn Tất Đạt cũng nói rõ: “Il obtint son certificat d’études primaires en 1908 et fut admís au Quôc Hoc”. Khi ra nước ngoài, anh Thành làm việc trên tàu viễn dương cho các hãng Chargeurs Réunis rồi hãng Messageries Maritimes (Năm Sao) đều là các hãng vận tải biển của Pháp, chỉ chuyên nói tiếng Pháp. Tại Marseille ngày 15 tháng 9 năm 1911, anh Thành đã viết đơn bằng tiếng Pháp, gửi Tổng thống Cộng hòa Pháp, xin vào học Trường Thuộc địa, cuối thư có nói rõ: biết tiếng Pháp, quốc ngữ và chữ Hán. Tiếp theo, tại Sài Gòn ngày 31 tháng 10 năm 1911 và tại New York ngày 15 tháng 12 năm 1912, anh Thành đã gửi hai bức thư cho Khâm sứ Trung Kỳ, một bức nhờ chuyển cho cha một ngân phiếu 15 $, một bức cho biết đã gửi cho cha là Nguyễn Sinh Huy 3 ngân phiếu nhưng mới chỉ nhận được một thư trả lời; thư tỏ ý muốn được biết địa chỉ và tình hình cha mình hiện nay sống ra sao. 

Những bức thư này được viết bằng tiếng Pháp với một cách diễn đạt gãy gọn, trong sáng và chuẩn xác về chính tả-ngữ pháp, chứng tỏ người viết đã có một trình độ vững vàng về tiếng Pháp. Thời gian đầu sang Anh, trong một lá thư gửi Phan Châu Trinh, anh viết: “Mấy bốn tháng rưỡi nay thì chỉ làm với Tây, nói tiếng Tây luôn. Tuy ở Anh nhưng chẳng khác gì ở Pháp”. Điều đó cho thấy việc học nói và viết tiếng Pháp của anh Thành là một quá trình liên tục, vì vậy khi trở lại Paris, anh đã có thể nói và viết tiếng Pháp thông thạo, đó là điều dễ hiểu. 

Các mật vụ người Việt có nhiệm vụ theo dõi anh đều có báo cáo giống nhau, như mật báo của Đốc phủ Bảy (mật danh là Edouard) viết: “Anh ta nói được tiếng Anh và tiếng Pháp thông thạo, biết ít tiếng Đức và tiếng Trung Quốc”. Một nhà báo Mỹ đã phỏng vấn anh và đăng bài đó trên tờ Yi Che Pao, xuất bản ở Thiên Tân, số ra ngày 2-9-1919, đã xác nhận “Nguyễn Ái Quốc nói tiếng Pháp rất giỏi” (parle admirablement le français). Xem thêm Lê Công Thành, một tên nịnh hót “cực kỳ”, trong bài “Bác Hồ và nước Việt Nam” (trên internet, 4/6/2011) đã bơm Bác như sau: “Bác là một nhà chính trị lỗi lạc, đồng thời là một nhà báo, một nhà thơ, biết vẽ, biết đóng kịch và thấu hiểu các nền văn hóa kinh điển, lãng mạn và hiện đại, nói được nhiều ngoại ngữ của các dân tộc trên thế giới. 

Bác luyện cả võ công”. 15. Trần Gia Phụng, Việt Sử Đại Cương, sđd, tr. 386: “Theo tài liệu của đảng CSVN, từ năm 1921, Nguyễn Ái Quốc khởi viết Bản án chế độ thực dân Pháp (xb ở Pháp năm 1925). Tuy nhiên, trong tờ trình của viên chánh kiểm soát quân đội và người Đông Dương tại Pháp, gởi toàn quyền Đông Dương ngày 12-9-1923, nói về việc Nguyễn Ái Quốc viết và nói tiếng Pháp, y đã viết như sau : “...Những bài ký tên Nguyễn Ái Quốc không phải do ông ta viết... Người Việt Nam ấy [Nguyễn Ái Quốc] chưa đủ khả năng nói và viết tiếng Pháp trôi chảy...” Riêng về hai lá đơn, Trần Gia Phụng viết trong Những câu chuyện Việt Sử, tập 2, sđd, tr. 308: “Không kể việc đúng sai về từ ngữ, văn phạm...” Nguyễn Văn Chức, trong bài “Hồ Chí Minh & Đảng CSVN” trên báo Thế Giới Ngày Nay, số 197, tháng 3-4, 2007, tr. 11: “Tiếng Pháp trong lá đơn xin học của Nguyễn Tất Thành quá kém...” 16. “Huyễn Thoại hay Huyền Thoại” (Hội Văn Hóa Việt phỏng vấn Gs Lê Hữu Mục về HCM, bài của Tinh Vệ, Diệu Tần, 22 Jun 2003, ghi chú thêm 10 Jan 2007): “Ngoài khoảng trên 20 tựa sách, những bài diễn văn, bài báo, ông đã viết cuốn "Hồ Chí Minh không phải là tác giả Ngục Trung Nhật Ký" (1989-90) gây nhức nhối cho Cộng sản Việt Nam (CSVN). 

Cuốn sách này ông ra sức tập trung ý chí và khả năng hoàn thành chỉ trong một tháng. Sở dĩ ông phải viết nhanh như vậy để kịp phá vỡ huyền thoại HCM, "Nhân vật Văn hóa Quốc tế mà Tổ chức UNESCO (Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hiệp quốc) dự định tôn vinh. 

Ðây là chuyện cũ, nhưng cho đến bây giờ vẫn là mới cần nhắc lại để dẹp cái phao xẹp "Tư tưởng Hồ Chí Minh" mà nhóm bạo quyền cố bám vào để tàn Dân hại Nước. Với phương pháp dùng textology (văn bản học), hệ thống hóa lại, tìm ra những mâu thuẫn và sai lầm rất vững vàng, tác giả đã minh chứng rằng : HCM là kẻ đạo văn (đạo : ăn cắp, ăn cắp văn người khác). Chúng ta đã biết người CS dùng bất cứ phương tiện nào dù xấu xa, vô nhân, vô đạo, vô luân nhất để đạt đến mục tiêu. 

Mượn đầu heo nấu cháo, lợi dụng xương máu Dân lành để nhận công của đảng mình chưa đủ, họ còn muốn làm Anh hùng Văn hóa Quốc tế nữa. Nhóm bồi bút Viện Văn Học Hà Nội dựa trên sự mạo nhận của HCM, ăn cắp văn của người khác, để thổi phồng tập thơ nhật ký lên một cách lố bịch và trơ trẽn”. 

Người Lính Già Oregon Portland, Mùa Quốc Hận, 14/4/2001 

Featured post

🔥 Bản Tin Trong Ngày 13/4/2024

My Blog List