Việt Nam






Thursday 30 April 2015

Nhân ngày 30/4: Những món nợ không sao trả nổi


Nhân ngày 30/4: Những món nợ không sao trả nổi


Xe tải quảng bá kỷ niệm 40 năm ngày

Xe tải quảng bá kỷ niệm 40 năm ngày "Giải phóng miền Nam" trên đường phố TP HCM.

Tin liên hệ

Về ngày 30/4: Chỗ đứng của Đảng CS phải là vành móng ngựa

29.04.2015
Nhân kỷ niệm 40 năm ngày 30/4, Bộ Chính trị Đảng CSVN chủ trương tổ chức kỷ niệm trọng thể «Ngày toàn thắng», «Ngày giải phóng miền Nam thống nhất đất nước», với những diễn văn cao ngạo đầy mỹ từ sáo rỗng, cờ quạt màu mè, trống kèn ầm ỹ, duyệt binh lên gân, pháo bông lóe mắt.
Tất cả chỉ để phủ lấp tình trạng bi thảm của một đất nước lạc hậu về mọi mặt: giáo dục trì trệ, y tế bệ rạc, khoa học kỹ thuật chậm tiến, xã hội đầy bất công, đảng cầm quyền đầy sai lầm và tội lỗi trước dân tộc và nhân dân, với cả một lớp cường hào CS ngang nhiên ăn cắp tài sản quốc gia để trở thành tầng lớp địa chủ CS, tư sản mại bản CS vượt rất xa các đại điền chủ - tư bản lớn nhất thời Pháp thuộc.

Tình hình bi thảm của đất nước chứng minh Đảng CSVN không còn có một lý do chính đáng nào để tiếp tục cầm quyền, tiếp tục tàn phá đất nước. Bảy mươi năm trước, nhân lúc đất nước bị bỏ trống - thực dân Pháp bị phát xít Nhật đảo chính, rồi phát xít Nhật đầu hàng Đồng minh - Đảng CSVN đã nổi dậy cướp chính quyền, từ đó giữ chặt quyền lực cai trị cho riêng mình, không qua một lá phiếu tín nhiệm nào của công dân. Chữ «cướp chính quyền» do chính đảng CS dùng không biết bao nhiêu lần trong các văn kiện chính thức đã nói lên tính chất «cướp», không đàng hoàng, không hợp chính nghĩa của họ từ hồi đó.

Nếp cai trị độc đoán của Đảng CSVN là dùng Cương lĩnh chính trị cùng các Nghị quyết của đảng qua các cuộc họp của Ban Chấp hành Trung ương, của Bộ Chính trị để cai trị đất nước. Hiến pháp chỉ là văn kiện thứ yếu phụ thuộc Cương lĩnh của đảng, Quốc hội chỉ là công cụ dân chủ giả hiệu của đảng với 90 % đại biểu là đảng viên. Đây là một chế độ đảng trị lỗi thời, lạc lõng lẻ loi ở thế kỷ thứ XXI khi thế giới đã bước vào kỷ nguyên Dân chủ từ thế kỷ XVIII.

Nhân dân VN ngày càng hiểu rõ tình trạng thật sự của đất nước, đòi phải thay đổi hẳn hệ thống cai trị hiện tại, nhân dân phải được quyền tự do đầy đủ của công dân, quyền tự do bầu cử, tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do tôn giáo, tự do lập hội đã được ghi trong Hiến pháp. Các quyền này đã bị hạn chế, cắt xén, phủ định bởi đảng cầm quyền.

Hiến pháp là luật gốc, không một đạo luật hay quyết định nào được đi ngược lại bất cứ điều khoản nào đã được ghi rõ trong Hiến pháp. Nhiều nước lập ra Viện Bảo hiến, hay Hội đồng Bảo hiến để bảo vệ triệt để Hiến pháp. Một món nợ lớn của Bộ Chính trị với dân ta là đã dùng nội dung hướng dẫn thi hành luật để phủ định nhiều điều Hiến pháp đã cho phép. Như Hiến pháp công nhận quyền biểu tình, vậy mà một Ủy ban nhân dân quận Hoàn Kiếm, Hà Nội, lại tự cho mình quyền cấm nhân dân biểu tình bảo vệ cây xanh của thành phố. Đây là một quyết định vi hiến, phải bị coi là vô giá trị. Món nợ dân chủ - nhân quyền của Đảng CSVN với toàn dân ta là món nợ lớn nhất, cấp bách nhất.

Nếu nói đến những món nợ của Đảng CSVN với nhân dân Việt Nam trong 70 năm qua thì thật sự không sao kể ra hết được. Nợ thì phải trả. Đó là lẽ công bằng của cuộc sống. Nhân dịp kỷ niệm ngày 30/4 chỉ xin kể thêm những món nợ cơ bản nhất.

Với hàng mấy triệu lượt chiến sỹ QĐND được đảng kêu gọi nhập ngũ để vào Nam chiến đấu, với hứa hẹn của đảng là hy sinh mạng quý của mỗi người là xứng đáng để tổ quốc hoàn toàn độc lập, xã hội sẽ ấm no, hạnh phúc. Với hy vọng ấy hàng triệu thanh niên đã lao vào khói lửa, sẵn sàng sinh Bắc tử Nam, để đến nay xã hội lạc hậu, nhân dân nghèo khổ so với các nước xung quanh đến thế này ư? Để bọn bành trướng lấn lướt láo xược đến thế này ư? Bộ Chính trị làm sao trả được món nợ cực lớn này khi vong linh của hàng triệu liệt sỹ hiện về chất vấn. Họ thường thắp hương trước đài liệt sỹ mà không hề cảm thấy có tội lỗi với hương hồn các liệt sỹ đã bị họ lừa dối.

Với nhân dân miền Nam nước ta, món nợ lớn của Đảng CSVN là ở điểm then chốt như sau. Trong Hiệp định Geneve (tháng 7-1954) và Hiệp định Paris (tháng 1-1973) chính quyền CS Hà Nội đã cùng các bên long trọng cam kết «tôn trọng quyền dân tộc tự quyết» được ghi rõ trong Hiến chương của Liên Hiệp Quốc, cam kết «tôn trọng quyền tự quyết của nhân dân miền Nam Việt Nam», bảo đảm «nhân dân mỗi miền có quyền tự do lựa chọn chế độ chính trị không có sự can thiệp của bên ngoài», cam kết «không đe dọa dùng vũ lực và không dùng vũ lực». Hiệp định Paris còn quy định «ngừng bắn tại chỗ», «các bên không nhập thêm vũ khí vào vùng đóng quân của mỗi bên», «thay thế vũ khí hư hỏng có kiểm soát quốc tế, theo tỷ lệ một đổi một». Cam kết trên đây không những là cam kết với nhân dân miền Nam, mà còn với nhân dân cả nước, và là cam kết chung với cả cộng đồng quốc tế. Nhưng họ đã chủ trương vi phạm ngay từ trước khi ký kết.

Đảng CSVN đã phản bội lời cam kết này trước hết và và nghiêm trọng hơn hết là với nhân dân sống ở miền Nam, kể cả hàng triệu nhân dân miền bắc đã di cư vào Nam, bỏ phiếu bằng đôi chân 20 năm trước, rồi tiếp đó lại phải lao ra biển thành «thuyền nhân». Món nợ này đối với đồng bào ta ở miền Nam là rất lớn, vì đây là nạn nhân trực tiếp của cuộc xâm lăng phi pháp, là nạn nhân bi thảm của sự cam kết giả dối tôn trọng quyền tự quyết của nhân dân miền Nam, rồi cam kết hão về hòa hợp, hòa giải dân tộc, lại còn hứa hươu hứa vượn về thành lập Hội đồng Quốc gia Hòa giải và Hòa hợp Dân tộc với 3 thành phần ngang nhau ở miền Nam, và cam kết quan hệ 2 miền Bắc - Nam sẽ «không bên nào
cưỡng ép hoặc thôn tính bên nào». Thảm kịch «tù cải tạo» là một món nợ cực lớn nữa đối với đồng bào ở miền Nam nước ta.

Ngay trước mắt, đối với toàn dân là món nợ của Bộ Chính trị về chống tham nhũng quyết liệt, về thảo ra Luật Biểu tình, Luật Trưng cầu Dân ý, Luật về lập Hội, rồi cải cách thể chế chính trị và kinh tế, sửa đổi các điều khoản mơ hồ trong bộ Luật hình sự như đã hứa hẹn với trong nước và thế giới.

Xem ra Bộ Chính trị vẫn đủng đỉnh, bình thản, mặc cho tình thế rất khẩn trương, quan hệ trong đảng rất căng thẳng, nhất là đối với đảng viên trí thức mà khá đông có tâm và có tầm hơn hẳn các ủy viên Bộ Chính trị, mặc cho tâm lý xã hội đang chuyển biến theo hướng tự do dân chủ, với hàng loạt biểu hiện mới: «Tôi không thích đảng CS!», «Tôi muốn biết sự thật», «Chúng ta là Một».
Họ thản nhiên vì với thời gian cầm quyền họ tha hồ đục khoét thêm cho các phe nhóm lợi ích riêng tư. Họ thản nhiên vì ỷ lại vào sự chống lưng của của Thiên triều Bành trướng TQ giàu tiền của, chỗ dựa tinh thần vật chất mà họ mù quáng tin vào sự vững mạnh trường cửu.

Ngày30 tháng 4 năm nay phải là ngày tính sổ nợ lưu cữu của Đảng CSVN với toàn dân, với nhân dân cả 2 miền Nam - Bắc, đều là nạn nhân của đường lối cai trị toàn trị thâm hiểm đầy bạo lực và sai lầm của đảng.

Vui vẻ gì, tự hào gì, vẻ vang gì cho Đảng CSVN khi tội lỗi chất chồng như thế, những món nợ kinh hoàng đến thế để mà bày vẽ duyệt binh với pháo hoa. Nếu là một tổ chức chính trị lương thiện, Đảng CSVN ắt phải tủi hổ sâu sắc để tạ tội với toàn dân về những tội lỗi nặng nề kéo dài lê thê trong 70 năm qua.



Nhà văn Võ Thị Hảo.....'Cần đối xử công bằng để thực sự hòa giải'....


'Cần đối xử công bằng để thực sự hòa giải'

Nhà văn Võ Thị Hảo Gửi cho BBC từ Hà Nội
  • 28 tháng 4 2015
http://ichef.bbci.co.uk/news/ws/660/amz/worldservice/live/assets/images/2015/04/28/150428102252_vietnam_war_640x360_vietnamwar_nocredit.jpg
Sóng biển vỗ qua máu và xương thịt của những thuyền nhân VN, từ đó biển ấy không bao giờ như cũ. Biển ấy pha máu xương người Việt trên con đường chạy trốn khỏi sự bạo tàn của chính quyền cộng sản Việt Nam. Chính quyền này nhân danh đấu tranh giai cấp và hệ tư tưởng để triệt hạ người dân của chính nước Việt.


"Tháng tư đen", "Ngày quốc hận", "Ngày Sài Gòn thất thủ", và mới nhất: "Ngày Hành trình tới Tự do" là tên gọi đối chọi nước lửa với cái tên "Ngày giải phóng miền Nam" của nhà cầm quyền Việt Nam luôn tự hào vỗ ngực.

Sau bốn mươi năm, lòng người vẫn ly tán. Việt Nam vẫn ngửa tay hân hoan đón dòng tiền kiều hối bất kể nó chảy về từ nguồn nào, nhưng vẫn kỳ thị và sẵn sàng trừng trị những kiều bào và công dân bất đồng chính kiến, gán cho họ hai tội "diễn biến hòa bình" và "phản động".

Cùng tiến theo mức độ tham nhũng, mức độ vi phạm tự do và nhân quyền, với nạn công an giết dân ngay tại trụ sở công quyền ngày càng tăng, là những cuộc đại lễ kỷ niệm 30/4 thêm khoa trương tốn kém.

Năm 2015, khi toàn quốc đang đứng bên bờ vực vỡ nợ và Trung quốc đã xâm chiếm nhiều đảo của Việt Nam, nhà cầm quyền Việt Nam lại tỏ ra càng cực kỳ hứng khởi, cho cả nước nghỉ tới tám ngày, còn nghỉ dài hơn cả nhiều dịp Tết Nguyên đán.

http://ichef.bbci.co.uk/news/ws/624/amz/worldservice/live/assets/images/2015/04/17/150417085652_viet_boat_people_hong_kong_640x360_getty_nocredit.jpg


Tiếc thay, sự tự hào vô bờ bến đó của nhà cầm quyền Việt Nam trong năm nay lại nhận đúng một thùng nước đá: Canada - một quốc gia có uy tín, xưa nay không thù không oán với Việt Nam, thậm chí đã và đang viện trợ cho Việt Nam trong nhiều năm nay, vừa thông qua đạo luật S-219 trong đó có xác nhận ngày 30/4 – ngày những người Việt Nam phải bỏ nước ra đi để trốn chạy khỏi chế độ cộng sản - là ngày "Hành trình tới Tự do"!

Đây là là một sự kiện đặc biệt, thêm sức nặng khẳng định nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam trong bao nhiêu năm đã xâm phạm quyền tự do và nhân quyền của người dân.
Ngày 24/4, nhà cầm quyền Việt Nam triệu đại sứ Canada tại Việt Nam đến để quở trách và phản đối đạo luật S- 219 nói trên. Lời phản đối này đương nhiên không trọng lượng.

Không "tắm máu" – chỉ là "biển máu"

http://ichef.bbci.co.uk/news/ws/624/amz/worldservice/live/assets/images/2015/04/24/150424164633_boat_people_976x549_bbc_nocredit.jpg
Khoảng 250 ngàn thuyền nhân Việt đã bỏ mạng trên đường vượt biên sau năm 1975 ?
 
Đạo luật nói trên của Canada như một lễ cầu siêu cho những linh hồn Việt đã bị đày đọa. Cho cả người chết và người sống.

Và hành động này không chỉ cho hơn 60.000 người tị nạn Việt Nam đã được Canada cứu mạng và cho 300.000 kiều dân Việt Nam tại Canada hiện nay, cho tất cả những người tị nạn Việt Nam trên thế giới, mà còn là lời tuyên bố dũng mãnh, một lập trường minh bạch không khoan nhượng với thể chế độc tài toàn trị cộng sản trên toàn thế giới.
Là người Việt Nam có lương tâm, lẽ nào không biết đến nước mắt và máu của đồng bào mình trên một nửa trái tim Việt đã đổ, đã chảy thành sông, đã pha đỏ ngầu nước biển trên con đường đi tị nạn của họ sau ngày 30/4/1975 để tìm tới tự do.

Làm sao có thể không xót xa, không tưởng nhớ, không thắp một nén nhang, một lời nói công tâm cho khoảng 250 ngàn đồng bào mình đã chết oan khốc trên biển? Có ai đặt mình vào hoàn cảnh của họ để thấu hiều dù chỉ một phần ngàn những khốn khổ của họ?

Chúng ta đã làm gì khi hai triệu đồng bào mình, chỉ vì khác chính kiến, là cánh bèo trôi dạt của những thể chế chính trị, mà không còn đường sống, phải tất tưởi đứt ngàn khúc ruột, bỏ lại đằng sau tất cả những gì đời người chắt chiu và hang ổ ẩn náu cuối cùng phó thác mình cho sóng dữ.


Gần một phần ba trong số thuyền nhân tị nạn cộng sản đã chết trên biển, chết quằn quại xác thân, chết vì bị hãm hiếp, trong cướp bóc, trong đói khát, trong ốm đau mòn mỏi, tuyệt vọng vì phải chứng kiến cảnh người thân lần lượt vùi thây bụng cá, cùng cực cô đơn.

Nhà cầm quyền Việt Nam trong thâm tâm luôn mặc định theo lối Trung cổ man rợ rằng phe chiến thắng phải tắm máu của phe bại trận, thế thì mới giải thích được việc họ luôn kể công rằng họ đã không tắm máu kẻ thù sau 30/4 và họ không phải ăn năn chuộc tội sau những sai lầm.

Có thực sự không có tắm máu không? Máu của khoảng 250 ngàn người bỏ mạng trên biển, dù bị nước biển pha loãng nhưng cũng đủ nhuộm màu.

Sóng biển vỗ qua xương thịt của những thuyền nhân Việt Nam, từ đó biển ấy không bao giờ như cũ. Nước ấy pha máu xương người Việt trên con đường chạy trốn khỏi sự bạo tàn của chính quyền cộng sản Việt Nam. Chính quyền này nhân danh đấu tranh giai cấp và hệ tư tưởng để triệt hạ người dân của chính nước Việt.

Có đủ để phủ nhận không tắm máu sau 30/4/1975? Nếu tính những dòng máu của đồng bào Việt Nam đang rỉ rả chảy, kể cả những người bị chính quyền cộng sản Việt Nam bắt đi tù và bị chết trong tù bởi chế độ nhà tù tàn bạo và thiếu thốn?
Lẽ nào đa phần người miền Bắc đến giờ này vẫn còn không ý thức được chân lý tối thiểu là đất nước Việt Nam không phải của riêng của người miền Bắc – những người thuộc chính thể cộng sản Việt Nam, bên mà do không tiếc mạng người dân nên đã giành phần thắng trong cuộc nội chiến huynh đệ tương tàn?

Lý do nào để tước đoạt quyền tồn tại của một nửa trái tim Việt Nam chỉ vì bất đồng chính kiến? Quá vô lương và bạo ngược.
http://ichef.bbci.co.uk/news/ws/624/amz/worldservice/live/assets/images/2015/03/29/150329172721_boat_people_640x360_vietnamarchives.jpg


Thể chế chính trị có thể thay đổi, nhưng núi sông máu thịt cha ông không thể dời đổi. Người con nào của đất mẹ Việt Nam cũng phải được quyền bình đẳng trên đất đó, phải được nhận phần thiêng liêng của mình trong lòng Tổ quốc.
Sao không thể là ngày quốc hận với một nửa trái tim Việt Nam đã bị bóp nát, vẫn bầm máu chảy và đêm đêm vẫn giật thột tỉnh giấc khóc than trong ác mộng mà đời họ đã phải trải qua, đã quằn quại đớn đau thân xác, đã để lại vết thương tinh thần không bao giờ bình phục được vì ngày 30 tháng 4?!

Sao không là ngày quốc hận nếu như sau bao gắng gỏi và chết chóc, phần thưởng mà người Việt Nam nhận được đến nay vẫn là một thể chế chính trị độc tài tham nhũng đứng trong số hàng đầu thế giới, với mức bình quân thu nhập trên đầu người đứng vào hàng đội sổ và một xã hội ngày càng vô đạo?!
Nếu người miền Bắc cũng phải bỏ nước ra đi chết như người Nam, liệu có vui được không? Có gọi đó là ngày quốc hận không?

Lẽ nào sau 40 năm chiến tranh kết thúc, mà Việt Nam vẫn chỉ đo đếm máu và nước mắt của những người miền Bắc chịu chết theo sự sai bảo của họ, đưa ngực làm bia đỡ đạn bảo vệ quyền lợi của giai cấp thống trị.


Đó là nguyên nhân tại sao, dù bao nhiêu rao giảng, bao mời gọi, họ vẫn không thể thuyết phục được người Việt Nam tiến đến hòa hợp và hòa giải dân tộc.
Họ càng không thể biện hộ vì thực tế đã có những nước thành thực hòa giải hận thù và rất thành công như nước Mỹ, nước Đức sau nội chiến. Dù hai bên vốn là cựu thù nhưng thể chế chính sách và hành động công bằng đã hóa giải hận thù, kéo hai miền gần lại, cộng hưởng sức mạnh gấp bội phần.

Hòa giải?

Thực ra người Việt Nam có đặc tính khóc mau mà cười lâu. Họ vốn rất dễ tha thứ. Họ muốn tha thứ lắm, cho nhẹ lòng, cho vết thương thành sẹo, nhưng cố quá mà chưa thể.
Họ đi, và vẫn chưa về, chưa thôi khóc, chưa thôi phẫn nộ vì không thể sống được ở một chính thể đã được Hội đồng Nghị viện của Ủy hội châu Âu , gồm 46 nước, bỏ phiếu và thông qua trong Nghị quyết 1481 ngày 25/1/2006 với nội dung lên án chế độ độc tài cộng sản:
"Những chế độ độc tài toàn trị cộng sản …đều là những quốc gia vi phạm nhân quyền… đều có chung những cuộc giết người tập thể, ám sát, thủ tiêu cá nhân không cần xét xử,… vì lý do chủng tộc, tôn giáo, chính kiến, vi phạm quyền tự do tư tưởng, xúc phạm lương tâm con người, cấm tự do báo chí, tự do chính trị, độc tôn, độc quyền độc đảng…",
"... nhân danh chủ trương đấu tranh giai cấp và chuyên chính vô sản mà các tội ác được biện minh… Hầu hết nạn nhân của chế độ cộng sản chính là công dân của nước đó."
"... các chế độ độc tài toàn trị còn lại trên thế giới vẫn tiếp tục gây tội ác. Không thể dùng quan điểm quyền lợi quốc gia để biện hộ, lấp liếm sự lên án của cộng đồng nhân loại với tội ác của chế độ toàn trị này. Quốc hội chung châu Âu cực lực lên án tất cả mọi vi phạm quyền con người trong các chế độ cộng sản, coi nó như là tội ác chống lại nhân loại."


http://ichef.bbci.co.uk/news/ws/624/amz/worldservice/live/assets/images/2015/04/22/150422094910_vietnam_war_anniversary_640x360_getty_nocredit.jpg
Đây là một phần của hoạt động kỷ niệm 40 năm ngày 30/4 tại Thành phố Hồ Chí Minh.
 
Người Việt Nam sẽ tự động hòa hợp ngay sau khi Việt Nam giải thể chính quyền độc tài cộng sản và thay vào đó bằng một chính thể dân chủ đa nguyên, tôn trọng tự do và nhân quyền.
Chính thể đó sẽ phải nhìn lại quá khứ, hành động nhanh nhất có thể trả lại công bằng cho mọi người. Không một chính thể nào còn có danh dự và tự trọng mà lại từ chối hành xử như vậy.

Với người Việt Nam, nhất là những đồng bào đã phải bỏ nước ra đi ngày ấy và sau này, sẽ gạt nước mắt, đứng bên nhau trong lòng mẹ Việt, để được yêu thương, để tha thứ, để cùng thắp nén nhang cầu hồn cho những người đã khuất vì cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn ngu dại.

Không thể khép lại quá khứ, không thể hòa giải nếu nhà cầm quyền không ứng xử công bằng, có trách nhiệm với quá khứ, hiện tại và tương lai của người dân. Nếu chỉ nói miệng mà không làm thì càng nói chỉ càng khiến ta công phẫn.

Đền lại công bằng cho những người Việt Nam dưới chính thể Việt Nam Cộng hòa phải chịu bao mất mát đớn đau tức tưởi sau ngày 30 tháng 4, thực ra là một việc làm quá dễ dàng đối với chính quyền Việt Nam.

Nhưng họ chẳng làm. 40 năm rồi.
Vì họ đã quen thói cướp lấy những gì mình muốn.
Không trả nghĩa là vẫn nợ. Nợ lâu trả thì cả vốn và lãi càng lớn.
Kết quả sẽ là "vỡ nợ".
Sau một cuộc vỡ nợ cấp quốc gia, xây dựng một chính thể dân chủ đa nguyên phi cộng sản, người Việt Nam sẽ nguôi ngoai "quốc hận".

Bài viết thể hiện văn phong và quan điểm riêng của tác giả.



__._,_.___

Posted by: Dien bien hoa binh 


AI TIN CỘNG SẢN ĐÂY ?

Một quả chôm, hai quả lừa





Một quả chôm, hai quả lừa
Ngô Nhân Dụng
Một câu chuyện khiến dư luận đang ồn ào đặt câu hỏi, từ Việt Nam qua Pháp và truyền trên mạng khắp thế giới. Câu hỏi là: Tại sao, nhân ngày 30 Tháng Tư sắp đến, các trang mạng mang tên các tay đầu sỏ đảng Cộng Sản lại đi “chôm” một bài cũ trên mạng của đài Á Châu Tự Do, RFA?

Ngày 6 Tháng Mười Một năm 2014, ký giả Tường An viết bài “Nước Ðức, 25 năm sau ngày bức tường Berlin sụp đổ” trên mạng của đài RFA; trước ngày dân Ðức kỷ niệm bức tưởng ô nhục sập. Sáu tháng trôi qua, đầu tuần này, một bài “Kỷ niệm ngày thống nhất 30-4 - Bức tường Berlin sụp đổ: Bài học hòa hợp dân tộc của người Ðức” xuất hiện trên mạng mang tên Nguyễn Tấn Dũng. Tựa thay đổi nhưng nội dung giống hệt như bài cũ của Tường An. Bạn bè khắp thế giới hỏi Tường An, cô cho biết cả đời không bao giờ gửi bài cho cái blog Nguyễn Tấn Dũng! Kết luận: Chúng nó chôm!

Xin lỗi, “chôm” là một động từ xuất hiện ở Sài Gòn sau ngày 30, có nghĩa là ăn cắp, ăn trộm, ăn cướp, vân vân. Sau biến dạng thành từ kép: Chôm chỉa. Không biết gốc gác ngữ nguyên từ đâu. Chỉ có thể đoán do chữ “trộm” đẻ ra. Lúc đầu là tiếng lóng, sau biến thành ngôn ngữ hàng ngày. Thay vì nói: “Ðứa nào trộm/cướp/giựt/đớp/béng/ tháu... của chị vậy?” thì hỏi: “Ðứa nào chôm của chị vậy” Các đồng chí nghe trộm 24 trên 24 cũng không biết đang bị chửi.

Trong tuần này, vụ chôm chỉa đã “phát triển có hệ thống!” Bài của Tường An không những đăng trên một blog Nguyễn Tấn Dũng mà còn xuất hiện trên hàng chục cái blog mang tên các đầu sỏ Việt Cộng khác! Có thể liệt kê thành phần nhân sự như được bố trí đăng bài của Tường An: truongtansang.net; nguyensinhhung.net; trandaiquang.net; phungquangthanh.net; phambinhminh.net; tohuyrua.net; nguyenthikimtien.net; lehonganh.net; nguyenchivinh.org; vân vân. Blog nào cũng đăng cùng một bài “/buc-tuong-berlin-sup-do-bai-hoc-hoa-hop-dan-toc-cua-nguoi-duc.html.” Bài này đăng bên cạnh những bài khác với giọng điệu ca tụng đảng Cộng Sản, cho nên không phải người ngoài đã bầy đặt ra để làm trò cười.
Khi các đồng chí chôm, họ chôm tận tình, kiên quyết, nhiệt thành cách mạng. Họ là những “thợ chôm” có tay nghề, nghiệp vụ cao! Trước hết là họ đổi tên tác giả Tường An. Ký tên mới là Minh Anh. Minh? Chắc để nhắc nhở vị tổ sư truyền nghề chôm chỉa là Minh - mà đồng bào miền Bắc còn gọi là Minh Râu, hoặc ghép chữ họ H đổi thành Hinh. Thứ hai là họ bỏ hết tên của những người cung cấp hình ảnh. Trong bản gốc của đài RFA có ghi Hình ảnh (Photo) của AFP hoặc của duhocduc.edu. Trong bản chôm, những hàng “credit” đó biến mất. Họ không để trống, chắc sợ phí của, nên để trên hình tên của blog, hoặc truongtansang.net hoặc nguyensinhhung.net, vân vân. Làm như chính tay chân các đồng chí đi chụp hình.

Trở lại với câu hỏi nêu đầu bài này: Tại sao các đồng chí Cộng Sản lại tung ra một chiến dịch chôm bài rộng lớn như vậy, với tựa đề: Kỷ niệm ngày thống nhất 30-4? Tại sao không đăng bài này vào dịp lễ lạt nào khác?

Lý do là họ muốn nhân ngày 30 Tháng Tư này hô lại một khẩu hiệu bịp bợm đã đánh lừa dân Việt trong hơn 40 năm. Tường An đặt tựa đề “Nước Ðức, 25 năm sau ngày bức tường Berlin sụp đổ” thì họ lại đổi ra thành: “Bức tường Berlin sụp đổ: Bài học hòa hợp dân tộc của người Ðức.” Nhấn mạnh “hòa hợp dân tộc!” Bởi vì bốn chữ này còn xuất hiện trên nhiều tựa bài khác. Như Nam Phi hòa hợp dân tộc, Trung Quốc hòa hợp dân tộc, vân vân! Có thể đoán ngày mai, 30 Tháng Tư, các tay đầu sỏ đảng Cộng Sản lại hô khẩu hiệu “hòa hợp dân tộc” một ngàn lần nữa! Hòa hợp là “một quả lừa vĩ đại,” nói theo kiểu người Hà Nội. Năm 1945 Hồ Chí Minh dùng quả lừa này để tóm tất cả các đảng phái quốc gia, không cộng sản. Năm 1975 thì gói trọn cả bọn “thành phần thứ ba.”

Ðồng bào miền Nam không bao giờ quên được quả lừa “đem theo lương thực đủ ăn trong 30 ngày.” Nghe, ai cũng tưởng sẽ đi tù một tháng là xong! Người miền Nam đã biết “Nói zậy mà không phải zậy” thế mà vẫn bị quả lừa của thằng đểu. Dân miền Bắc còn bị lừa nặng hơn. Sau khi bị đảng chôm hết từ ruộng đất, nhà cửa, đến cả quyền tự do dạy dỗ con cái, bà con ta bị đảng lừa bắt đi “giải phóng miền Nam.” Ðảng nói trên cái loa đầu đường: Miền Nam đang bị Mỹ bóc lột, nhân dân đói khổ. Sau ngày 30 Tháng Tư 1975 nhiều người Hà Nội đem một túi gạo với mấy cái bát, đôi đũa vào Sài Gòn giúp họ hàng.

 Ðến nơi mới biết rằng họ hàng ở miền Nam sống sung túc gấp trăm, gấp ngàn lần gia đình mình. Suốt mấy chục năm đảng hô hào “chống Mỹ cứu nước.” Bây giờ đảng lại mò mẫm tìm đương ôm chân Mỹ mong được cứu khỏi cảnh bị Trung Cộng lừa. Việt Cộng học thuật lường gạt “giải phóng” của Trung Cộng để lừa dân Việt Nam. Nhưng thằng bịp nào cũng có một thằng bịp cao tay hơn. Học trò lại bị thầy lấy “tình đồng chí anh em” đánh lừa suốt nửa thế kỷ để nuốt đất, nuốt rừng, nuốt biển đảo!
Tội nghiệp cho dân Việt Nam, hứng hai quả lừa vĩ đại trên đầu!

Ngay trong việc chôm bài ký của Tường An cũng chứa nhiều quả lừa, vẫn sử dụng trên các blog mang tên những tay đầu sỏ đảng. Nhiều người có thể ngạc nhiên thấy các tay thợ chôm đang cả những đoạn Tường An thuật những câu nói bất lợi cho cộng sản. Thí dụ, Tường An hỏi chuyện một người Việt ở Ðức về vụ tường Berlin sụp đổ: “...từ Berlin, ông Nguyễn Duy Tân, một cựu đảng viên Cộng Sản phát biểu: 'Cảm nghĩ của tôi thực sự là bình an. Mọi người đều có sự công bằng trước pháp luật và trước cơ quan công quyền nhà nước. Ai cũng được quyền tự do tham gia và việc của nhà nước. Ðó là giá trị mà tôi cảm thấy may mắn, hạnh phúc được sống trong một nền tự do.”

Nói như vậy là ca ngợi chế độ dân chủ tự do người dân Ðông Ðức chỉ được hưởng sau năm 1989. Như vậy có khiến nhiều độc giả ở Việt Nam cũng muốn được tự do hay không?

Có hai lý do khiến bọn họ giữa nguyên những đoạn như vậy. Thứ nhất, họ biết nhiều người Việt Nam đọc câu trên mà không nghĩ gì cả. Ðầu họ trơ ra, vì vẫn tưởng rằng họ đang tự do rồi! Họ đang “hạnh phúc được sống trong một nền tự do” dưới độc quyền cai trị của đảng từ lâu, không cần tự do thêm nữa! Hơn nửa thế kỷ đảng nói dối 24 giờ một ngày, 7 ngày một tuần, nếu không có ai tìm như vậy thì mới lạ.

Lý do thứ hai, là các blog mang tên những tay đầu sỏ của đảng đều đánh hỏa mù, lâu lâu vẫn đăng những bài, những câu ngược với đường lối, chính sách của đảng. Cố tình múa cả trăm món võ, lập lờ đánh lận con đen, để không ai biết bọn họ đang mưu tính với nhau những gì. Người ngoài mà căn cứ vào những bài trên blog của họ để bàn ra tán vào rằng anh này thân Mỹ, anh kia thân Tàu, anh nọ cải cách, anh khác bảo thủ, vân vân, đều bị đánh lừa hết!

Nhưng người ta vẫn tự hỏi: Tại sao mấy chục cái blog của họ lại chôm cùng một bài, đang cùng một dịp như vậy? Có phải đó là chủ nghĩa “chôm nhất trí,” “chôm quán triệt” hay không? Không lẽ Bộ Chính Trị lại họp, biểu quyết “Chúng ta chôm” cho cấp dưới thi hành?

Câu hỏi này khó quá. Không ai đi guốc được trong bụng máy anh Cộng Sản; chỉ có bọn mình hớ hênh nghĩ cái gì trong đầu các cậu ấy cũng biết hết!
Chỉ có thể đoán rằng có một bộ phận duy nhất phụ trách nội dung tất cả các blog mang tên các tay đầu sỏ. Nếu không thì không thể tình cờ “chôm đồng khởi” như vậy. Có thể đoán rằng người phụ trách các blog này “bái phục” bài của ký giả Tường An, mê nó quá nên quyết định chia đều cho các quan trên cùng hưởng, sợ bị phê bình kiểm thảo.

Hoặc có thể chỉ vì vận hạn của đảng Cộng Sản nó đến lúc tan hàng rồi. Cho nên không ai còn hứng thú làm những công việc chán nản như việc làm mấy cái blog dối trá nữa. Anh nào cũng làm việc lấy lệ, ăn cơm chúa múa tối ngày mà thôi. Tình cảnh chán chường này có thật. Dân miền Nam Việt Nam bị chôm tận tình sau ngày 30 Tháng Tư năm 1975 còn đang nuôi hận. Bây giờ đồng bào miền Bắc cũng bắt đầu ngúng nguẩy không chịu cho đảng chôm nữa. Nghề chôm cũng có lúc lên lúc xuống. 

Nhà báo Huy Ðức mới nói với phóng viên AFP, nhân ngày 30 Tháng Tư: “Cái Bên Thắng Cuộc đang có vẻ chuyển thành Bên Thua Cuộc!”
Ngô Nhân Dụng




__._,_.___

Posted by: thanhbinh nguyen 

Wednesday 29 April 2015

Ngày Hội Ngộ Văn Hóa Phụ Nữ Việt Nam Toàn Cầu toả sáng trong Tháng Tư Đen 40 năm tị nạn.


On Tuesday, 28 April 2015, 21:23, "> wrote:


---------- Forwarded message ----------
From: Kiren Tran <
Date: 2015-04-28 16:26 GMT+10:00
Subject: Fw: Trần Khải Thanh Thủy
To: Ginh Tran <t
----- Original Message -----
From: Que Tho Tran
Sent: Monday, April 27, 2015 1:31 PM
Subject: Trần Khải Thanh Thủy
Trần Khải Thanh Thủy
Mời ACE xem bài phát biểu của Nhà Văn Trần Khải Thanh Thủy...
Ngày Hội Ngộ Văn Hóa Phụ Nữ Việt Nam Toàn Cầu toả sáng trong Tháng Tư Đen 40 năm tị nạn.
alt
Nữ tác giả Trần Khải Thanh Thủy phát biểu trước cử tọa đông đảo. Photo by Nguyễn Minh.
Văn học Việt Nam dưới ách cai trị của đảng Cộng Sản.
Kính thưa bà con, cô, bác, anh, chị, em có mặt trong hội trường hôm nay!
Thưa toàn thể các bạn đồng nghiệp yêu quý của  tôi!
Trong 30 thứ tang mà đảng cộng sản dành cho dân tộc Việt Nam vào ngày 30 tháng 4 năm 1975 (từ vượt biển, ép dân đi kinh tế mới, đổi tiền, đánh tư sản mại bản, xua người dân vào cái đũng chật hẹp của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa “bao nhiều, cấp ít” v.v… ) thì văn học cũng bị bức tử không thương tiếc, trở thành niềm thương, nỗi nhớ, sự đau đớn, xót xa cho những người hiểu biết, có lương tri thời đại, đặc biệt là có lương tâm văn học.
Nếu coi xã hội Việt Nam là một máy vi tính khổng lồ, gồm hai phần chính là “ổ cứng” và “ổ mềm”, thì phần “ổ cứng” bao gồm sông hồ, rừng núi, biển đảo, tài sản, tài nguyên thiên nhiên v.v… còn “ổ mềm” chính là nền văn hóa của xã hội Việt Nam hiện tại.
Trong chiến tranh, bàn tay các đồng chí nhuốm máu đồng bào mình theo khẩu hiệu nằm lòng, sặc tanh mùi máu: “Cơm xào thịt giặc mới ngon. Canh chan máu thù thì lòng mới cam” nên trong thời bình, bàn tay các đồng chí tiếp tục tàn sát đồng bào mình qua các công cuộc, cướp bóc, bắt bớ, bán chác v.v… Bán từ kho vũ khí Long Bình đến thềm lục địa, cùng bao nhiêu tài sản thiên nhiên của đất nước. Từ đất hiếm (chứa nhiều kim loại quý) cho Nhật Bản, dầu thô cho Nga, rừng đầu nguồn, Bô xit Tây nguyên, vỉa than lớn nhỏ cho Tàu, bãi biển cho Hồng Kông, nhà máy, cơ xưởng cho Đài Loan, Hàn Quốc v.v…  Chưa kể bao nhiêu người nằm vật vờ trên sóng nước, trên con đường vượt biển. Bao nhiêu sĩ quan Cộng Hòa chỉ còn là những nắm xương di động trên mặt đất  hoặc xương khô trong mả. Nhiều gia đình bằn bặt tin cha, anh, chồng, khi tìm vào  trại thăm nuôi, chỉ còn một cách  duy nhất là thuê người đào trộm mộ đem nắm xương khô cô quạnh về lại quê nhà. Nghĩa là từ “cải tạo” thành cải táng, cải mả (Người chịu đựng được 3 tháng, người 1 năm, người 20 năm )... Hàng triệu người đã chết trong các trại tập trung trá hình, vì không chịu nổi sự bạo hành  tàn tệ của  bè lũ cán bộ, sự khắc nghiệt của thời tiết nơi rừng sâu nước độc. Chính vì thế, dưới sự cai trị nham hiểm bậc thầy của đảng cộng sản, tất cả những gì thuộc về “ổ cứng” đều bị trầy vi xước vẩy, móp méo, biến dạng, thể hiện  rõ nét qua những điều chúng ta đã và đang  nhìn thấy ở Việt Nam trong vòng 40 năm qua.
Bởi văn hóa là “phần mềm” trong cơ thể xã hội, nên cũng như “phần cứng” trong chiếc vi tính khổng lồ gồm 90 triệu người (tạm coi là 90 triệu linh kiện), văn hóa cũng bị bầm dập,  bóp nát. Giữa thời hội nhập toàn cầu đầu năm 2015, Hà Nội từ một thành phố 4000 năm văn hiến trở thành thành phố vô văn hóa. Cụ thể văn hóa giao tiếp không, văn hóa giao thông không, văn hóa xã hội lại càng không, bởi trên môi người dân Hà Nội nào, từ thằng bé 5 tuổi đến các ông già, bà cả 60, 70 cũng tươi roi rói tiếng chửi, câu thề, nói lóng, nói trại. Giao thông hỗn độn chưa từng thấy, tất cả tràn ra đường, tranh cướp nhau từng cen-ti-mét đất, hễ người này sơ ý chạm vào xe người kia là có tiếng  chửi: - “Đ.m. mày, thích  rúc vào đít ông à?”. Còn nếu là phụ nữ thì tiếng chửi nanh nọc hơn: -“Thằng mặt...” Ngay sau đó là một đám chen lấn xô đẩy, người ta sẵn sàng quẳng xe xuống lề đường để xông vào cô gái kia, làm một việc vô cùng vô văn hóa là tụt bằng được quần cô ta để chứng minh những lời cô vừa nói xem mặt của người bị chửi, có giống “mặt dưới” của cô ta không?
Còn Sài Gòn, từ Hòn ngọc Viễn đông trong thời Việt Nam Cộng Hòa trở thành điểm đen, đất dữ trong thời cộng sản, không những với người dân trong quốc nội còn là nỗi ám ảnh kinh hoàng của Việt Kiều và du khách nước ngoài với  tỷ lệ tội phạm  tăng vọt chưa từng thấy. Những hình ảnh mà 40 năm trước người dân Sài Gòn chưa từng phải chứng kiến thì hiện tại nhan nhản trên đường phố. Nhiều cặp vợ chồng du khách, mặt nhợt nhạt, miệng méo xệch, ngực đeo tấm biển: -“Tôi là người nước ngoài, bị kẻ cắp lấy toàn bộ tài sản, vật dụng, tiền bạc, giấy tờ... Xin chỉ đường cho tôi tới đại sứ quán  của  nước tôi để xin cấp lại visa và ứng tạm ít tiền về nước”. Nhiều cháu bé buổi sáng còn chào ba mẹ đi học, mắt long lanh, miệng mỉm cười mà đêm về đã thành cái xác không hồn vì bị ăn cắp nội tạng từ tim, gan, thận v.v…
Vì thời gian có hạn xin nói về nền văn học Miền Bắc sau 70 năm  cai trị của Đảng Cộng Sản VN, bởi ai cũng biết, văn học là một phần quan trọng trong “ổ mềm” văn hóa nước nhà.
Ngay từ 1945 sau khi cướp được chính quyền từ tay nhân dân, đảng cộng sản đã coi Văn Nghệ  như một thứ công cụ chính trị để mị dân, trấn áp người tài để bóp nghẹt tự do ngôn luận. Chính vì vectơ chuyển động của đảng cộng sản về phía cái ác, cái xấu và cái dốt, nên bốn tiêu chuẩn đặc trưng của lãnh đạo cộng sản Việt Nam là: Nhất dốt, nhì tham, tam ngông, tứ độc. Tất cả các nhà văn nếu không chịu tuân theo các tiêu chuẩn này thì dù tác phẩm có hay đến mấy cũng bị bóp nghẹt từ trong trứng.
Nhà văn, nghệ sĩ, thay vì sinh ra để phụng sự chân, thiện, mỹ, để nói thật, tạo động lực cho xã hội phát triển, cũng là tạo ra cho xã hội loài  người những di sản đẹp thì đảng bắt họ còng lưng, quỳ gối, uốn ba tấc lưỡi để nói những điều dối trá, triệt tiêu chân lý, đến mức người dân phải sửa thơ Phùng quán từ 60 năm trước để đau đớn thốt lên: “Đem bục công an đặt giữa trái tim người. Tình cảm ngược xuôi theo luật côn đồ đảng, bác”
Vụ án Nhân văn Giai phẩm năm 1957 thực sự là một cuộc cải cách  chữ nghĩa long trời lở đất. Thay vì các bần cố nông lên đấu tố địa chủ trong cải cách ruộng đất rồi bắn chết họ, thì cuộc cải cách chữ nghĩa còn để lại di họa hàng trăm năm.
Nhà thơ Lê Đạt phải lao động cải tạo một ngày 2 khối đất, làm từ 6 giờ sáng đến hai giờ đêm, cả tháng trời không một giọt nước tắm, người hôi hám như súc vật, chưa kể còn bị cấm cầm bút 30 năm. Nhà văn Nguyễn Hữu Đang bị biệt giam 25 năm ở cổng trời Hà Giang, không hề biết tới cuộc kháng chiến toàn diện, toàn dân do đảng cộng sản phát  động trong vòng 21 năm. Ra khỏi tù chỉ được lĩnh 8 kg gạo mỗi tháng, không nhà cửa, không thực phẩm, không lương, phải ở nhờ trong chái bếp lợp rạ của khu tập thể giáo viên, đặt một cái vại để xin nước vo gạo của cả khu, gạn lấy nước đặc dưới đáy để quấy với nắm gạo thành cháo loãng thay cơm, phải bắt cóc, ngóe, rắn thay thực phẩm. Khi nào chết cố bò ra vũng đất nông cạnh bụi tre thay mộ.
Khi bóng ma cộng sản gõ vào ngôi nhà nào thì điêu linh mở ra ở đó, đặc biệt gõ vào cánh cửa của ngôi đền văn học thì điêu linh biết bao nhiêu mà kể xiết. Sau 1975, hết chiến tranh, văn học vẫn không được quyền sống cho riêng mình mà vẫn phải gồng mình lên làm nhiệm vụ theo cây gậy chỉ huy của Đảng: “Bắt câm mồm phải câm mồm, nếu kêu ca sẽ lìa hồn, văng thây”. Một cây bút nghiệp dư tại hội văn học nghệ thuật tỉnh Hòa Bình, một hôm làm bài thơ tả cảnh nhà sàn của đồng bào dân tộc, tất cả đều chỉn chu, mạch lạc, rõ ràng, chỉ câu kết của bài thơ: “Có hay đâu giá lạnh dưới chân sàn” lập tức bị coi là ám chỉ, động chạm đến ngôi nhà sàn của lãnh tụ tôn quý, thiêng liêng. Xúc phạm tới tình cảm cao đẹp của bác Hồ kính yêu với đồng bào dân tộc. Lập tức bị đuổi việc, đuổi khỏi hội nhà văn Hòa Bình, cắt hộ khẩu lên vùng kinh tế mới và chết mất xác nới rừng thiêng nước độc, vì thung thổ khí hậu qúa khắc nghiệt, chưa kể mảnh bom, mảnh đạn, không hộ khẩu, điện đường , trường học, trạm y tế, nước sạch v.v…
 Với số đông nhà văn ngoan ngoãn dễ bảo còn lại, đảng dùng giải thưởng còm cõi nhuốm màu chính trị, bè phái để mua lương tâm họ, bắt họ phải quên đi chính nghĩa rạng ngời của ông bà tiên tổ truyền lại từ bao đời.
 Máu đổ một giây di họa đủ một đời, máu đổ suốt 21 năm trời  ròng rã ( từ 1954-1975) thì di họa biết  bao nhiêu mà kể xiết? Vậy mà đảng cứ thích “quang vinh, muôn năm” bắt nhà văn phải cầm bút ca ngợi thành tích ảo, chiến công ma, sự chỉ đạo mù quáng của đảng, chứ không được phép nói đến di họa của chiến tranh, như trường hợp của tác giả. Ngày 27-7- ngày thương binh liệt sĩ, còn gọi là “ngày bới xác, mò xương, đếm khăn tang và đong máu chiến hào” tôi viết một chùm ba bài: “Nước mắt chưa khô trên má mẹ hiền”. “Bão thổi không ngừng trong những vành tang trắng” và “Đêm đêm nhang cháy đỏ bàn thờ”. Lập tức bị “phơi mặt” trên truyền hình vì tội xúc phạm đến những tình cảm cao đẹp của nhà nước dành cho các bà mẹ Việt Nam anh hùng, đồng thời bị treo bút 6 tháng, đi khỏi báo cựu chiến binh, tịch thu thẻ nhà báo, cho dù sau đó ký hợp đồng với báo khác vẫn không được cấp thẻ.
Nếu viết về nỗi niềm củi lửa, cháo rau trong thời bình, cấm nhắc đến sự thiếu thốn của thời hậu chiến. Dù cả xã hội “run trong từng cọng rau”, lương cán bộ chỉ đủ sống mười ngày. Cô giáo sáng vào trường bán cháo phổi, tối vào nhà hàng rẻ tiền bán thân, kiếm sống bằng sự sa đọa, suy đồi của lũ khách ăn đêm. Thầy giáo một buổi  dạy, hai buổi  đạp xích lô kiếm cơm v.v… Chuyện vỉa hè phải để lại vỉa hè, cấm được ngứa bút đưa lên mặt báo mà mang tội “bôi bác xã hội”, “không tin tưởng vào sự lãnh đạo tuyệt đối sáng suốt,  uy tín của  đảng”.
Nhà văn đứng về phía nước mắt, vạt áo của  nhà văn đong đầy  nỗi khổ của dân nước trong thời hậu chiến. Từ chỗ “ra ngõ gặp anh hùng” thành “ra ngõ gặp ăn mày” vì “người người ra trận, nhà nhà ra trận”. “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”. Một tỉnh nhỏ như Thanh Hóa, Thái Bình vẻn vẹn 1,5 triệu dân mà có 4 vạn 6 bộ đội và thanh niên xung phong. Từ “kho cung cấp người trong chiến tranh” thành nghĩa trang liệt sĩ khổng lồ trong thời bình. Nếu may mắn không bị “Tổ Quốc cắt cơm, gia đình vắng vẻ”, thì cũng trở thành “Tổ quốc quên  công gia đình  đói khổ”... Thế mà phải im miệng, bẻ cong ngòi bút, coi nỗi khổ của dân, của mình là vùng cấm của đảng không được động đến vì “nhạy cảm”. Từ nhạy cảm đến vô cảm chỉ cách  một bước chân, từ vô cảm đến tội ác, khoảng cách  còn ngắn  hơn nữa, nên chúng  ta hiểu vì sao sau 40 năm cầm quyền trên phạm vi cả nước, Nhờ “sự hy sinh to béo” của  đảng, nước ta lại có nhiều tội phạm đến thế? Ở Na Uy  trung bình 100 nghìn người dân mới có 6 tội phạm, ở Hà Lan, nhiều nhà tù bỏ trống, còn ở Việt Nam đã xây tới 900 nhà tù lớn nhỏ (theo quy định 31 CP của chính phủ do thủ tướng Võ Văn Kiệt ký): “Mỗi quận, huyện được phép xây mới một nhà tù”. Vậyhiện tại vẫn thiếu chỗ ở cho 26 nghìn tội phạm hình sự.  Xã hội suy đồi, tha hóa, khiến nhà văn Ma Văn Kháng - một cây “đại bút” của nền văn học xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải đau đớn thốt lên trong tác phẩm “Mùa lá rụng trong vườn” từ 1989: “Xã hội  loạn lạc đến mức mỗi gia đình phải có trách  nhiệm  đóng góp cho xã hội từ một đến hai đứa con...hư hỏng”. Nhà nào càng đông nhân khẩu, mức đóng góp càng lớn, thậm chí có nhà 7,8 người bị bắt cả chùm luôn vì người buôn ma túy, người hút hít, người lừa đảo, trộm cắp, cờ gian bạc lận hay đâm chém, giết người v.v…
Một xã hội không có sự phản biện là một xã hội chết, xã hội Việt Nam trong suốt 70 năm trị vì của đảng cộng sản thực sự đã chết lâm sang, vì làm người mà không được cất lên tiếng nói trung thực của mình, không được làm những việc mình muốn, ngược lại phải “sống, chiến đấu, lao động và học tập theo gương con đầu đàn vĩ đại”. Nhà văn cũng vậy, đẻ ra tác phẩm không theo đúng cách thức của Ban Tư Tưởng Văn Hóa Trung Ương thì lập tức tác phẩm ấy sẽ bị đập chết bằng cách cấm đoán, thu giấy phép, cấm xuất bản, cấm đăng ký bản quyền v.v… Nếu trước đó đã trót “thai nghén”, không muốn đứa con tinh thần của mình rơi vào “lề trái”, “vùng nhạy cảm” hoặc “phản động”  phải lập tức... nạo thai ngay lập tức
Lẽ ra theo đúng quy luật của sự sáng tạo: Tác phẩm  rời  nhà văn như con thuyền rời bến, tìm về bờ bến xanh trong và neo đậu vào bến bờ tâm cảm của  người đọc,  thì tác phẩm lại rơi vào vũng ao tù, nước đọng là các nhà xuất bản, cục xuất bản, Ban văn hóa tư tưởng Trung Ương, phòng PC25 (chuyên phụ trách về văn hóa phản động) hoặc PC 35 (cục phản gián) của bộ công an,  bị các lưỡi dao kiểm duyệt của các biên tập viên, giám đốc, trưởng ban, trưởng phòng thẳng thừng cắt xén, trở thành nhợt nhạt, vô hồn không sức sống.
Bình thường ở các nước dân chủ tự do, nhà văn bình đẳng với Chúa trong việc sáng lập ngôn ngữ, thì ở Việt Nam, nhà văn buộc phải trở thành những “con chiên ngoan đạo” của cả bầy đàn lãnh đạo vô học dốt nát. Vì thế thay vì sinh ra để bảo vệ và phát  triển văn hóa cũng như văn học theo quy định của luật pháp, thì nhà văn bị bịt miệng vì luật rừng, luật chết quái gở độc địa, khai tử bao nhiêu đứa con trung thực, khỏe mạnh, theo  sự chỉ đạo áp đặt  của  đảng.
Cả một nền văn học bị bức tử trở thành xanh xao, còi cọc, suy dinh dưỡng hoặc chết yểu trong bóng tối ngột ngạt, ám khí, ác độc của Đảng Cộng Sản. Ngược lại, chỉ những tác phẩm nhảm nhí , thiếu chất lượng , làm tổn hại đến thẩm mỹ của công chúng, cũng như làm tầm thường nền văn học nước nhà lại được phát triển ào ào như nấm độc sau mưa.
Một nền văn học chỉ toàn những kẻ vinh thân phì gia, vờ vịt, dối trá, tự nguyện tiếp tay ca tụng cái ác, cái xấu cái dốt, rồi ăn không nói có, bợ đỡ, xu nịnh thì đó là văn học gì? Nếu không phải là sự khốn nạn, nhục nhã. Không ít tác giả nữ phải dùng “vốn tự có” của mình để làm ván bắc cầu nhảy xa, cùng quan lớn thừa hưởng sự giàu sang phú quý trên máu và nước mắt dân tộc. Hầu hết các tác giả nam phải quên  nghèo khổ, bất công, tham nhũng, nước mắt người già, trẻ thơ hay nỗi đau quặn thắt của  cha mẹ khi không có tiền cho con đến trường, phải đẩy con ra lề đường kiếm sống. Quên luôn cả các vết thương lịch sử đau đớn làm bao  triệu người phải chết như “Cưỡng chiếm Miền Nam, đánh bắt các sĩ quan Việt Nam Cộng Hòa, bài xích, chèn ép vợ con họ, đẩy cả vạn triệu người lên khu kinh tế mới để chiếm nhà cửa ruộng vườn cho các quan lớn. Quên cả cuộc vượt biển kinh hoàng, làm chấn động  toàn thế giới trong gần 3 thập kỷ từ giữa 70 đến 80, 90...”
Bao nhiêu  nhà văn sa đà vào việc  mô tả tính  dục rồi dùng  phong bì lót tay để sách được nhà xuất bản, hội nhà văn tổ chức những đợt tuyên truyền quy mô, rầm rộ để nhận về những giải thưởng độc hại còm cõi như “Giải thường Hồ Chí Minh”; “Giải văn học về đề tài công an nhân dân” , Giải “Quốc phòng  toàn dân” v.v…
Nói tóm lại, có cả một chủ trương ngầm để dung tục hóa văn chương theo đúng vectơ chuyển động của đảng cộng sản, bốc thơm ca ngợi cái ác, cái dốt, cái xấu, khiến những nhà văn có tài, có lương tâm văn học mất chỗ đứng trong lòng độc giả, và văn học cũng tự đánh mất thiên chức của  mình là  đánh thức lương tri và khai sáng  cho độc giả. Tiếc rằng những hành xử tinh vi và tàn độc này đã kéo dài 70 năm (với Miền Bắc) và 40 năm (với Miền Nam), biến hàng vạn nhà văn, nhà báo thành những kẻ “ăn theo, nói leo” hệt những con rối bị giật giây. Bao nhiêu tác phẩm đích thực được các tác giả hoài thai trong đau đớn vật vã của tâm hồn, tình cảm trí não mình,  bị cắt, xẻo xử trảm từ trong trứng nước. Những cuộc “nạo thai”, khai tử diễn ra hàng ngày, hàng giờ nơi đất nước mặt trời lặn, trong góc tăm tối cuối cùng của Thế Giới, khiến hơn 93 triệu người dân thành một biển người dối trá. Dù nói ngược, nói xuôi, nói xưa nói nay, hay ám chỉ, vòng vo, cuối cùng cũng phải quay về giọng  Đảng... Đó chính là bóng đêm nô lệ của một nền văn học nhồi sọ, phục vụ cho các nghị quyết, chính sách dốt nát, sai trái của Đảng. Cái xấu, cái ác, cái dốt được lên ngôi, cái đạo lý trung thực, công bằng bị bóp chết. Thật không còn gì để nói ngoài việc “thành kính phân ưu” với nền văn học nước nhà dưới sự cai trị kéo dài của Đảng Cộng Sản. .
Cuối cùng  xin dành lại thời gian  cho người kế tiếp.
Cám ơn ban tổ chức đã tạo điều kiện cho tôi được phát  biểu chính kiến, quan điểm của mình, cũng như cám ơn toàn thể bà con, anh chị em đã chú ý lắng nghe.
Santa Ana  April 18-2015.
 Trần Khải Thanh Thủy



__._,_.___

Posted by: loc huong 

Buổi nói chuyện của chương trình Từ Cánh Đồng Mây với GIÁO SƯ NGUYỄN TIẾN DÂN

 
Buổi nói chuyện của chương trình
Từ Cánh Đồng Mây
với
GIÁO SƯ

NGUYỄN TIẾN DÂN
Xin bấm link để nghe

“Điều anh em nghe được trong bóng tối hãy nói nơi ánh sáng,
điều anh em nghe rỉ tai nhau hãy rao giảng trên mái nhà”. - (Mt 10:27)
Hà nội, ngày 15  tháng  4  năm 2015
Kính gửi: ông Trương Tấn Sang – Chủ tịch nước CHXHCN Việt nam.
Tên tôi là: Nguyễn Tiến Dân.
Địa chỉ: 208 phố Định Công Thượng – quận Hoàng mai – Hà nội .
Điện thoại: 0168-50-56-430.

1-Trước đây, tôi luôn cầu Trời – khấn Phật. Mong sao, ông Chủ tịch được khỏe mạnh. Và, không bị ai đó đầu độc, như Nguyễn Bá Thanh. Nay, Nguyễn Bá Thanh, đã về cõi vĩnh hằng. Còn, ông Chủ tịch, vẫn sống dai dẳng và chưa chết. Chứng tỏ, ông Trời đã nghe thấu và chuẩn y, lời cầu nguyện của tôi.
2-Trời, cũng thương tôi. Chẳng thế, chính quyền CS của các ông, thình lình trở nên tốt bụng. Họ, sai lính xuống, mời tôi ra phường. Để, bàn chuyện, trả lại số tiền, mà họ đã cướp của tôi. Tại cuộc họp ấy, đại diện của Công an kinh tế, thông báo ngắn gọn: Trước mắt, sẽ trả lại cho tôi, số tiền gốc, mà họ đã chiếm đoạt trái phép. Còn tiền lãi, 2 bên, sẽ ngồi thương lượng với nhau. Nếu, không thỏa thuận được, họ sẽ mở phiên tòa, để xử …chính họ (!)

Sau khi, chìa ra cái củ cà rốt, phòng Chống phản động của CA Hà nội, vào cuộc. Họ, phân tích chán chê, tác hại của loạt bài: “Dưới ánh sáng của nền Văn minh Trung hoa cổ đại: Chủ nghĩa cộng sản ở Việt nam – Những bất cập và sự sụp đổ tất yếu của nó”. Họ, đề nghị tôi, đừng viết nữa. Cò cưa – kéo xẻ mãi, hai bên đồng ý kí thỏa thuận: “Nếu, được chính quyền CS, giải quyết quyền lợi, 1 cách công bằng: ông Nguyễn Tiến Dân, sẽ thôi, không viết bài nữa”. Tôi đề nghị, thời hạn trả tiền gốc, là 10 ngày.
Một tuần sau, tái họp ở UBND xã Phú mãn. Chủ trì, là viên bí thư đảng ủy của xã. Ông ta, có vóc dáng loắt choắt của 1 đứa trẻ còi xương và suy dinh dưỡng. Vầng trán đã hẹp, lại thêm đôi mắt gián nhấm. Thể hiện, một trí tuệ lùn và một tư duy thiển cận. Giọng của ông, thều thào. Đặc tính căn bản, của những kẻ hụt hơi và thiếu sinh khí. Nhưng, bộ mặt câng câng của ông, phản ánh 1 cách rõ nét: Ông, không phải là người, được dạy dỗ Lễ - Nghĩa, 1 cách cẩn thận.

Chó, cậy gần nhà – Gà, cậy gần chuồng”. Cổ nhân dạy, cấm có sai. Đã, thi đấu trên sân nhà. Lại được thêm, trọng tài cùng 1 duộc. Ông ta, ngang ngược tuyên bố: “Chờ, chỉ đạo của trên. Và, bao giờ thu xếp được tiền, thì mới trả”. Đồng thời, tỏ thái độ thách thức và trâng tráo tuyên bố: Người xây đập, ông ta chết, cách đây lâu lắm rồi. Nhưng, chính quyền CS, vẫn chưa thèm, trả tiền công, cho người nhà của ông ta. Ít thôi, khoảng 800 triệu VND. Gia đình người này: Chịu, chẳng làm gì được, chính quyền CS.

Cõi trần gian, chỉ có nhà vô Phúc và thất Đức, mới có thể, sinh ra những đứa con, ngỗ ngược và vô liêm xỉ. Cán bộ CS của các ông, là hạng người như thế. Gọi chúng là gì, xin ông, cho tôi biết với.
Và, cho đến tận bây giờ, thời hạn 10 ngày, đã qua ít nhất “3 lần 3 là 9” đận. Nhưng: Một xu tiền gốc, họ cũng chưa trả lại cho tôi. Tất nhiên, chẳng có 1 thằng nào – chẳng có 1 con nào, gọi đến, hỏi thăm tôi, lấy 1 lời.
Ông ơi: Có nên, chửi thằng cha nhà chúng nó, lên không? Có nên, chửi con mẹ nhà chúng nó, lên không? Hỡi, quân lừa đảo – lũ bịp bợm.
3-Đã từng học luật, chắc chắn, ông phải biết điều này: “Cướp, là một tội danh, chỉ người nào sử dụng vũ lực, hoặc đe dọa sử dụng ngay tức khắc vũ lực, đối với người khác. Nhằm, chiếm đoạt tài sản của người ta. Thủ phạm gây ra vụ cướp, gọi là tên cướp”.

Thưa ông.

-Ỷ thế chính quyền (tức là, đã sử dụng vũ lực), để tước đoạt tiền vốn của nhà đầu tư. Ỷ thế chính quyền, để tước đoạt tiền tiền công của người lao động. Người ta đi đòi, thì ngầm đe dọa: “Chú viết như thế, mà không sợ, sẽ bị xử lí hay sao?”. Những thứ đó, đã đủ cấu thành tội “cướp ngày” hay chưa? Nói: “Chính quyền CS, là lũ kẻ cướp”, có phải là, đổ oan cho các ông không?
-Cả 4 cấp chính quyền CS, đều thông tỏ điều này. Nhưng, họ vẫn thản nhiên, câu kết với nhau. Để, chiếm đoạt, tiền vốn của nhà đầu tư và tiền công của người lao động. Những thứ đó, đã đủ cấu thành tội “cướp, có tổ chức” hay chưa?
-Công an Hà nội, biết rất rõ, việc làm sai trái của chính quyền CS. Nhưng, họ vẫn không chịu, truy tố chính quyền  CS. Và, lôi chúng, ra trước vành móng ngựa. Những thứ đó, đã đủ cấu thành tội danh “bao che và đồng lõa với lũ kẻ cướp” hay chưa?
Nếu, tất cả các câu trả lời của ông, đều là không. Xin ông, sai lính xuống, mà bắt tôi. Dĩ nhiên, với tội danh vu khống. Đồng thời: Hãy đốt cái bằng “Cử nhân Luật” của ông đi. Để, từ nay, chỉ xài cái bằng “Cử nhân Luật…rừng”.

4-Viết đến đây, chợt nhớ chuyện “Lý Thông, cướp công Thạch Sanh”.

Lý Thông, dù tồi tệ đến đâu, nó cũng chỉ hành động có một mình. Lý Thông, chỉ cướp công của người khác. Lý Thông, chưa từng lấy của Thạch Sanh, dù chỉ là, cái khố rách.
Những người CS các ông: Người khác đắp đập, các ông nhận là của mình. Tiền công của người lao động, các ông quỵt. Tiền vốn của nhà đầu tư, các ông lừa đảo. Cướp của họ, để chia nhau.
Đo về độ khốn nạn, Lý Thông, phải gọi các ông, là thầy. Tội của Lý Thông, “nhẹ” như thế. Lại được Thạch Sanh, nhớ tình xưa – nghĩa cũ, rộng lượng, tha cho về quê, mà làm ăn. Nhưng, đạo Trời, đâu có dung, lũ kẻ cướp. Về đến nửa đường, cả hai mẹ con, đều bị, sét đánh chết. Chúng, bị “Trời đánh – Thánh vật”.
Không biết sau này: Nhân dân, dẫu có rộng lượng, mà dung tha. Luật Trời, liệu có miễn? Ông Trời, sẽ dùng hình phạt nào, cho lũ cán bộ mất dậy của các ông.
5-Cán bộ CS, từ loại mạt hạng (chức vụ – phẩm cấp thấp nhất), từ loại đứng đầu đường – xó chợ: Đã biết ỷ thế chủ, hống hách – ngang ngược – cướp bóc của dân lành. Chúng, “ăn của Dân, không từ 1 thứ gì”. Thông qua sưu cao – thuế nặng (mà, chúng gọi, 1 cách không ngượng mồm, rằng: Để, giúp người dân, thể hiện lòng yêu nước), chúng bóc lột của người dân, đến tận xương – tận tủy.

Ông Chủ tịch, ông có cần, lấy dẫn chứng không? Nhiều không kể xiết, ông ạ. Dẫu, có chặt hết trúc Yên tử, để làm bút – Dẫu, có múc cạn nước sông Đà, để hòa mực. E rằng, vẫn chưa đủ, để viết hết, những câu chuyện ấy đâu. Thỉnh thoảng, ông hãy bôi gio – trát trấu vào mặt, để hóa trang. Dùng khẩu trang bịt miệng – Lấy áo rách che thân, để vi hành. Chẳng phải, đi đâu xa. Chỉ cần, xuống số 1 phố Ngô Thì Nhậm – Hà đông: Ông sẽ biết, con dân Đại Việt, đang bị cai trị, theo kiểu gì.
6-Thấp, thì như thế. “Đỉnh cao chói lọi” của cộng sản, liệu có khá hơn gì không? Hãy xét trường hợp, ông Nông Đức Mạnh.
Ai cũng biết, ông Trời rất công bằng. Ai, đã có được vóc dáng: “vai u – thịt bắp – mồ hôi dầu”. Ắt, sẽ bị Ông, tước đi 1 phần trí tuệ. Nói như thế, không phải là, không có ngoại lệ. Nông Đức Mạnh, là 1 trong những ngoại lệ hiếm hoi đó.
Trời, ban cho ông, mái tóc đen, dày và bóng lộn. Nó, luôn được ông chau chuốt và chải ốp ngược, ra sau gáy. Vì thế, nhìn vào trán ông, đứa nào dám nói: Nó, lùn tè?
Ông, rất vui tính. Đến thăm 1 trường học, ông hỏi các cháu học sinh: “Làm người, có khó không các cháu? Có khó không? Thế tóm lại, có làm được không?”. Sợ ông, không đứa nào, dám hỏi: “Còn bác, bác có làm được không?”.
Vì vui tính, nên, ông rất thích cười. Lần nào cười, cũng cố, khoe cho bằng hết, cả 2 hàm răng chắc, khỏe và đều tăm tắp. Chiếc nào – chiếc ấy, to gần bằng, nửa quả chuối mắn.

Trời, cũng phú cho ông, cặp mắt lúng liếng – đa tình. Soi vào đấy, những hạng đàn bà lẳng lơ, cầm lòng không đậu. Có bà U50, còn cố tình “trốn Chúa – lộn chồng”, để đi theo ông. Tất nhiên, bà được ông, dễ dãi tiếp nhận. Họ, đã nên vợ – thành chồng. Chuyện “trai chết vợ – gái bỏ chồng”, tự nguyện đến với nhau, chẳng có gì, là trái Pháp luật. Ấy thế mà, trong lúc trà dư – tửu hậu, bao kẻ, cứ xúm vào đàm tiếu – chê bai. Chẳng qua, chúng ghen tỵ, với hạnh phúc muộn mằn của ông. Hạng “tài nôngđức mỏng” như chúng: Lấy sao được, những quí bà, đã trải qua mấy đời chồng và sắp mãn kinh. Phải chửi, thằng cụ tổ, của nhà chúng nó lên. Chửi rằng:
Quân, ti tiện – Lũ, thối mồm. Tổ sư cha, nhà chúng mày”.
Mẽ ngoài của ông, dù đẹp đến đâu, cũng không thể, sánh ngang với trí tuệ của ông. Đảng, giao cho ông, làm tiều phu. Ông, tận tình, khai thác gỗ. Xuất sắc đến độ: Bây giờ, về cơ bản, Thái nguyên, đã hết tiệt rừng già. Với thành tích ấy, ông leo nhanh, trên các nấc thang danh vọng. Để, chỗm trệ, ngồi vào ghế Chủ tịch Quốc hội, 2 khóa liền tù tì. Đảng CS Việt nam, nơi tập trung, tinh những “đỉnh cao trí tuệ của nhân loại”, cũng phải khiếp vía. Họ, bầu ông – người xuất sắc nhất trong số họ, làm đầu đảng. Trong, không phải một, mà là, cả 2 khóa tiếp theo.
Dưới sự lãnh đạo tài tình của ông: Kể từ khi gia nhập ASEAN: Việt nam, luôn ở trong top ten. Chưa bao giờ, lọt ra ngoài top đó. Đành rằng, đứng ở top dẫn đầu, là rất khó. Nhưng, Việt nam, cũng chưa bao giờ, đứng ở hạng đội sổ. Chí ít, cũng đứng ở hạng thứ 8 – thứ 9. Một kì tích, phi thường – vĩ đại. Đối với 1 Đất nước, có rừng vàng – biển bạc; Người dân cần cù – thông minh; Lại được thêm, Thiên nhiên ưu đãi. Như, ở Việt nam.

Nhân, vô thập toàn”. Đã vẹn toàn, cả về tài – sắc. Ắt, ông phải khuyết đi, phần nhân cách.

Chính ông, đã mở mắt cho Nhân dân Việt nam – cho cán bộ, chiến sĩ của các lực lượng vũ trang – cho Kiều bào ta ở nước ngoài và cho bạn bè, khắp năm châu – bốn bể. Để, tất cả thấy, những người CS, bố láo – bố toét. Họ, đang công khai, thách thức dư luận. Họ, đang sống phè phỡn, trên đầu – trên cổ, Nhân dân Việt nam.
-Không phải ai khác, chính Nông Đức Mạnh, đã phát động và xúi giục toàn Dân – toàn Quân – toàn đảng CS, “Học tập và làm theo tấm gương Đạo đức Hồ Chí Minh”. Ắt hẳn, ông phải là, người học trò xuất sắc nhất, của tiền bối.
Từ, lời dạy của cổ nhân: “Thày  nào – trò ấy”. Khiến người ta, phải đặt câu hỏi: Phải chăng, ngày xưa, Hồ Chí Minh, sống còn buông thả, hơn cả Nông Đức Mạnh?
-Cá nhân tôi, tin tưởng chắc chắn rằng:  không bao giờ, có việc đó. Chỉ còn, mỗi cách giải thích: Tổng Bí thư của đảng CS, xúi và bắt Nhân dân Việt nam, sống thắt lưng – buộc bụng. Để, dồn tiền cho chúng, có được cuộc sống xa hoa – lãng phí và kệch cỡm. Tổng Bí thư của đảng CS, chuyên “nói 1 đàng – làm 1 nẻo”. Nếu thế, Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh, là tay lừa đảo và bịp bợm vĩ đại nhất, trong lịch sử của đảng CS Việt nam?

Thưa ông Chủ tịch. Những người CS các ông, thường phùng mang – trợn mắt – gân cổ hô hào: Thượng vàng – hạ cám trong xã hội, phải để, “Dân biết – Dân bàn – Dân làm – Dân kiểm tra”. Nhưng, xin ông, chớ có dại, mà làm như thế. Xin ông, chớ có dại, mở cửa nhà “ông đầy tớ” Nông Đức Mạnh, cho Nhân dân Việt nam vào kiểm tra. Ở Ukraina, Tổng thống Yanukovych và chế độ, do ông ta cầm đầu, bị lật đổ, cũng chỉ vì, những lí do tương tự.

Chỉ, xin ông, giải đáp cho, 1 thắc mắc nho nhỏ: Nông Đức Mạnh, lấy đâu ra, mà lắm tiền đến thế?

-Tứ đời nhà ông ta, “khố rách – áo ôm”, à quên, là bần – cố nông. Vậy, quên đi chuyện: Được tổ tiên, để lại cho, cả núi vàng.
-Theo đơn thư của Nông Thị Bích Liên: Khi, về đến nhà chồng, vợ mới của ông, còn ôm theo, cả 1 đống nợ. Vậy, quên đi chuyện: Được 1 mớ, của hồi môn.
-Đất nước, còn nghèo. Lương ông ta, chắc chỉ bằng, trợ cấp thất nghiệp, ở xứ cờ hoa. Vì thế, quên đi chuyện: Ông ta, tích góp được, từ đồng lương.
-Ông ta, chưa được bất cứ một ai, mời ra nước ngoài, để diễn thuyết. Và, cũng chẳng thấy, được Nhà xuất bản nước ngoài nào, đặt viết hồi kí. Vậy, không thể có thu nhập, từ 2 nguồn này.

Thưa ông Chủ tịch. Phải chăng, Nông Đức Mạnh có được nhiều tiền: Bởi ông ta, đi ăn cắp. Ông ta, đã ăn cắp của Nhân dân Việt nam. Ông ta, đã ăn cắp của Đất nước Việt nam.

Và, trong hàng ngũ của các ông: Còn bao nhiêu kẻ, như Nông Đức Mạnh?
Ông Chủ tịch. Với tư cách, là “người đầy tớ thật trung thành của Nhân dân”. Ông, có dám: Công khai trả lời, cho Nhân dân Việt nam – những chủ nhân thật sự của Đất nước Việt nam, biết sự thực hay không?
7-“Cái nọ, xọ cái kia”. Viết về Nông Đức Mạnh, sao có thể, quên được người kế nhiệm: Ông Nguyễn Phú Trọng, đảng trưởng của đảng CS Việt nam.
Ông, là 1 người đẹp trai, đạo mạo và thông minh nức tiếng. Là tay, trùm lý luận của đảng CS. Cậy mình tài giỏi: Không ít lần, ông còn dám, phang cả vào, thần tượng Hồ Chí Minh.
-Từ Hồ Chí Minh, cho đến Võ Nguyên Giáp, chẳng biết có thật bụng hay không. Nhưng, ai cũng đề cao, vai trò của Nhân dân. Riêng Nguyễn Phú Trọng, thích nói ra, điều ngược lại.
Dạo ấy, đang trong lúc nước sôi – lửa bỏng, của cuộc kháng chiến chống Thực dân Pháp. Hồ Chí Minh, đã chỉ rõ: “lòng yêu nước”, “tinh thần đoàn kết” và “ý chí đấu tranh bất khuất, chống giặc ngoại xâm” của Nhân dân Việt nam, luôn luôn, là nhân tố quyết định. Để, “nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”.
Nguyễn Phú Trọng, hăng hái phản bác: Trời, sinh ra đảng CS Việt nam. Và, trao cho nó, xứ mạng “đè đầu – cưỡi cổ”. À quên, lãnh đạo Nhân dân Việt nam. Bất kể, họ có muốn hay không. (Muốn biết thực hư, nào có khó gì. Hãy để: đa nguyên – đa đảng. Cộng với, bầu cử Tự do. Ngay – gian, lòi ra tức khắc). Đồng thời: “sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội là nhân tố có ý nghĩa quyết định”. Nó, làm nên mọi chiến thắng của Dân tộc Việt nam. Truyền thống, là muỗi. Nhân dân, chỉ là cái đinh gỉ.

Hồ Chí Minh chết rồi, cãi sao được, với tay học trò ngỗ nghịch.

-Nguyễn Phú Trọng, cũng chỉ rõ: Đã, có tới 160.000 đảng viên của đảng CS, bị giết trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Làm gì có chuyện: “Nhân dân ta, phải hy sinh nhiều của, nhiều người”, như Hồ Chí Minh, đã từng ngộ nhận.  Bởi, nếu có việc đó, Nguyễn Phú Trọng, đâu có thong manh, điếc lác và lú lẫn đến mức, không nhận ra nó. Nhận ra nó, chắc chắn, ông ta đã đề cập đến nó. Và, song song với con số trên, ông ta phải đưa ra thống kê, về: số thường dân – số cán bộ, chiến sĩ (không phải là đảng viên) của các Lực lượng vũ trang, đã chết trong 2 cuộc chiến đó. Cho, vong linh của họ, đỡ tủi. Cho, thân nhân của họ, biết rằng: Họ, không bị chết oan uổng và vô nghĩa. Cho, Nhân dân Việt nam, biết được rằng: đảng CS, đã đóng góp được bao nhiêu phần trăm, trong sự hy sinh vô bờ bến của cả Dân tộc. Để, giành được, cái mà những người CS, gọi là “Độc lập – Tự do”.
Dĩ nhiên, trong con mắt của ông: Không hề có, cái gọi là, cuộc Chiến tranh chống Trung quốc xâm lược, ở Biên giới phía Bắc, năm 1979. Không hề có, cái gọi là, cuộc Chiến tranh chống bè lũ diệt chủng Polpot  do Trung quốc đỡ đầu, ở Biên giới Tây nam. Và, trong số 64 cán bộ – chiến sĩ Hải quân Nhân dân Việt nam, bị bọn “bạn vàng” của ông, sát hại một cách thê thảm, ở đáo Gạc ma: Không một ai, là đảng viên, của cái đảng, do ông, làm đảng trưởng.

lục lâm – thảo khấu, có 1 câu truyền khẩu, rất nổi tiếng: “Có dây máu, thì mới được chia phần”. Chỉ, có đảng CS Việt nam, là có “dây máu”. Do đó, theo logic của lũ giặc cỏ: Đất nước này, phải là của riêng, của đảng CS Việt nam. Từ quyền lực – Từ đất đai – Từ tài nguyên thiên nhiên. Cho đến, quyền ăn – quyền nói. Đứa nào, chỉ cần, nói trái ý của đảng CS. Đứa ấy, đã là “các thế lực thù địch và phản động”. Và, chúng chỉ xứng đáng, được sống trong lao tù CS.
Nhân dân Việt nam, “tiền không đóng – gạo chẳng góp”. Một hạt máu, cũng chẳng rơi. Cớ sao, lại định đòi cướp công của những người CS? Đừng có hòng.
8-Nói đến, những người đàn ông CS. Mà, không nói đến, những người đàn bà CS. Thật là, 1 sự khiếm khuyết. Hãy xét, người đàn bà xuất sắc nhất, trong số họ: Bà Nguyễn Thị Doan, Phó Chủ tịch của nước CHXHCN Việt nam.

Đánh giá dung nhan của đàn bà, cổ nhân xếp theo thứ tự: mặt (phải tươi như) hoa – da (phải mịn như) phấn. Bà Doan, được cái vế đầu: Lúc nào cũng thấy, bà cười toe toét.
Giáo sư Nguyễn thị Doan, có tận mấy bằng Tiến sĩ. Chứng tỏ, bà thông minh vượt trội. Bà, hiểu dân mình, kĩ lắm. Thế nên, mới được đảng CS, cử làm, Phó Chủ tịch nước. Bà, được bọn Tư bản, cấp học bổng. Để, ăn dầm – nằm rề tại đó, hàng chục năm trời. Người tử tế, phải nhớ ơn cưu mang và bốc chúng, lên tận mây xanh. Thế, mới phải đạo. Còn bà? “Khỏi vòng, cong đuôi” – “qua sông, dí  .ồn vào sóng”. Bà, chửi chúng thậm tệ, theo “định hướng” của đảng bà.

Từ so sánh, cuộc sống và sinh hoạt của 1 phó Chủ tịch nước, ở Việt nam. Với cuộc sống chui nhủi – vất vả của 1 nữ nghiên cứu sinh, ở các nước Tư bản. Bà thấy, sướng hơn gấp vạn lần. Từ đó, hấp tấp khái quát luôn: “Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân... khác hẳn về bản chất và cao hơn gấp vạn lần so với dân chủ tư sản”. Mồm, thì nói như thế. Nhưng cả bà, lẫn cái đảng của bà, vẫn không quên, lăn xả vào vòng tay lông lá của chúng. Để, cầu cạnh – Để, vay mượn – Để, xin xỏ chúng. Cho dù, đó chỉ là, những món ODA còm. Vét ra, từ nồi cơm thừa – canh cặn của nhà chúng nó.

Các thế lực thù địch và phản động”, chúng thường dựa vào đó, để dè bỉu: “Đỉnh cao trí tuệ”, mà còn như thế. Mặt bằng của tầng lớp trí thức CS, còn “khủng” đến cỡ nào?
Riêng tôi, chưa từng, trèo lên cái tàu bay, để ra nước ngoài. Chưa biết, bọn Tư bản, chúng sống ra sao. “Ếch, ngồi đáy giếng”.Vì thế, không dám loạn ngôn, bình luận lời bà. Chỉ dám rụt rè, đưa ra vài nhận xét, như thế này:
Bà Doan, hiểu rất rõ, bản chất của cán bộ CS. Biết, chúng “ăn của dân, không từ một cái gì nữa”. (Không từ 1 cái gì, nghĩa là: cứt, chúng cũng chẳng từ). Nói trắng ra, bà chê chúng (dĩ nhiên, phải trừ bà ra), sống rất bẩn thỉu. Thế mà, chế độ Tư bản, còn bẩn thỉu hơn cả “vạn lần”. Eo ơi! Kinh khủng quá – Tởm lợm quá. Và, tôi tự an ủi: Mình, còn may mắn chán. Vì, được sống, dưới ách cai trị, thừa mứa lương tâm của những người CS:
Nhà nước “pháp quyền CS”, mới chỉ cướp của tôi. Chưa thấy, họ làm phiền tôi. Biết đâu đấy, sống dưới chế độ khổ sai của bọn Tư bản (Ấy là, bà Doan bảo thế): “Cướp của”, thì chắc là, giống CS rồi. Bởi, “chó mực, ở đâu mà chẳng đen”. Chỉ sợ, bọn khốn nạn đó, làm thêm động tác “hại người”. Tỷ như:
-Quăng cho “2 cái bao cao su, đã qua sử dung”. Hoặc, dúi cho, mấy tép ma túy tổng hợp. Hoặc, vu cho là, đã “học tập và làm theo tấm gương đạo đức của Hoàng đế  Nông Đức Mạnh”, trong viêc trốn thuế. Hoặc, chụp cho cái mũ: “dám to gan, vạch trẩn sự thực kinh tởm của chế độ Tư bản chó chết”…Tóm lại, là vu khống. Để, nhốt tù.
-Cũng có thể, đang đi trên đường: Vài thám tử, kính đen che mắt – khẩu trang bịt mõm, vè vè xe đến. Áp sát và bắt cóc. Rồi, đưa đến 1 nơi nào đó. Mà vợ con, chẳng bao giờ biết nữa.

-Đơn giản hơn, là tai nạn giao thông. Hoặc, ngộ độc thức ăn, chẳng hạn.
-Cũng có thể, quấy nhiễu nơi làm ăn. Hoặc, làm hại người thân…
Đã là “chó má”, chúng từ cái gì.
Muôn năm, chế độ CS. Chỉ “cướp của”, mà không “hại người”.
Tổ sư, chế độ Tư bản. Vì, chúng chuyên bịp bợm. Khiến, Nhân dân ở đó, sống lầm than. Nhưng, họ vẫn tưởng, mình đang ở  trên Thiên đàng.
Chỉ khi nào, tận mắt, nhìn thấy cuộc sống của bọn đầy tớ, của Nhân dân Việt nam. May ra: Họ, mới hết u mê. Họ, mới thèm nhỏ rãi. Họ, mới nổi máu tham. Họ, mới có đủ dũng khí. Để, vùng lên, làm cuộc Cách mạng, lật đổ chế độ Tư bản thối nát.   Và, xây dựng ở đó, thiên đường CS. Sa chân vào đó, họ sẽ được nếm mùi “thiên đường”. Sa chân vào đó, họ mới nhận ra 1 chân lý, hết sức giản đơn: “Đã là thiên đường, dĩ nhiên, phải chấp nhận, mọi sự khác thường ở đó”.
Ở thiên đường đó: Những ông chủ - bà chủ, không có quyền, dùng lá phiếu của mình, để lựa chọn lũ đầy tớ. Chúng, xách súng đến: Bắt họ, phải chấp nhận, để cho chúng, được độc quyền làm “đầy tớ”. Bài vị Tổ tiên của ông chủ, chúng ném hết ra sông. Thay vào đó: Chúng, bắt Nhân dân, phải xì xụp cúng vái sư phụ mắt xanh – râu xồm – mũi lõ của chúng.
Ở thiên đường đó: Những ông chủ - bà chủ, phải làm quần quật, để nuôi lũ đầy tớ. Nhưng, họ không có quyền, phân phối của cải, do họ làm ra. Họ, cũng chẳng có quyền, định đoạt tài sản, do Tổ tiên để lại. Những thứ đó, nhất nhất, đều bị, buộc phải trao cho lũ đầy tớ. Để, “chúng lo”.
Ở thiên đường đó: Lũ đầy tớ, tuyệt đại đa số, có năng lực tồi. Chúng, “làm theo năng lực” tồi ấy. Nhưng, lại được “hưởng theo (những) nhu cầu” hết sức tham lam và quái đản của chúng.

Ở thiên đường đó: Lũ đầy tớ, được quyền tự do tuyệt đối. Chúng, nói ngược – là ngược. Chúng, nói xuôi – là xuôi. Chúng, ăn ra đấy – Chúng, ỉa ra đấy, những ông chủ - bà chủ, nhìn thấy mười mươi, cũng phải câm mồm. Chậm hoặc khác ý, chúng đánh cho bỏ mẹ.
9-Thưa ông Chủ tịch. Từ xưa đến nay, những người CS các ông, bất chấp thực tế, cứ xưng xưng lên rằng: “đảng ta, là đạo đức – là văn minh”. Các ông, dùng súng đạn. Các ông, dùng nhà tù. Các ông, bắt người dân chúng tôi, nhắm mắt – bịt mũi, tiêu hóa mệnh đề đó. Ông ơi: Đạo đức gì, lũ kẻ cướp. Nhìn thấy của cải của người khác, chúng tối sầm mắt mũi lại. Văn minh gì, quân lừa đảo. Chuyên, nói 1 đàng – làm 1 nẻo.
Phó thường dân như tôi: Nhất định, không học theo, cả cái “đạo đức sáng ngời”, lẫn cái “văn minh chói lọi” của những người CS. Bởi, nó xa lạ với Dân tộc Việt chúng tôi. Dân tộc Việt chúng tôi, sống hiền hòatương thân – tương ái. Không bao giờ, công khai kêu gọi và khuấy lên hận thù. Kiểu như: “Trí – Phú – Địa – Hào, đào tận gốc – trốc tận rễ”. Để, làm 1 cuộc diệt chủng: Tiêu diệt, cả 1 giai cấp. Nhà nhà dạy con, phải biết ơn sinh thành và kính trọng cha mẹ. Chẳng ai, dạy con làm những việc thất đức. Tỷ như: Đấu tố, chính cha mẹ đẻ của mình.

Khi, tôi gặp khó khăn – hoạn nạn: Bao người, đã chìa bàn tay nhân ái ra, cứu giúp. Mà họ, nào có dư giả gì. Ai cũng mong, tôi lấy lại được tiền của chính quyền CS. Để, hoàn lại cho bà con. Ai ngờ, tôi gặp phải lũ cướp.
Không thể, sống trơ trẽn và khốn nạn, như những người CS các ông. Tôi, đã phải đứt ruột, bán đi ngôi nhà thân yêu, ở 208 phố Định Công Thượng. Để, 1 phần, trả nợ cho chính Ngân hàng CS. Một phần, trả nợ cho những người, đã yêu quý và giúp đỡ tôi. Một phần khác, làm lương khô, dự trữ cho vợ con. Cả nhà tôi, bây giờ, tạm tá túc tại 544 đường Láng – Đống đa – Hà nội. Nếu cần liên hệ, thậm chí muốn bắt người: Tôi, luôn đợi các ông, tại địa chỉ đó.

10-Ông Chủ tịch. Vẫn biết, chính quyền CS của các ông, có sức mạnh của sắt thép. Các ông, có thể ho ra lửa – mửa ra khói. Các ông, sẵn sàng làm bất cứ việc gì. Miễn sao: “Không phải, chia quyền lãnh đạo Đất nước, cho bất cứ 1 ai khác. Ngoài, đảng CS”. Các ông, những “đỉnh cao trí tuệ của nhân loại”. Các ông, có chí lớn. Các ông, mới ôm mộng “tranh bá – đồ vương”. Các ông, ương ngạnh độc quyền. Trong khi, chẳng hiểu gì, về phép trị Nước – an Dân.
Về phần mình, phải tự thú nhận: Dung mạo của tôi, ma chê – quỷ hờn. Tâm địa của tôi, tàn bạo – độc ác. Tài, thì hèn – Chí, thì cùn. Nên, tôi chỉ thích, đi chăn lợn. Tôi, yếu – mềm như 1 cây nến. Cực chẳng đã, mới phải viết, những bức thư đòi tiền kiểu này, gửi đến các ông. Không biết, các ông có rộng lượng, mà bỏ qua. Hay, đã sẵn sàng: Để, thắp lên ngọn nến Nguyễn Tiến Dân? Bởi, các ông, chủ quan cho rằng:
Mình, đã có những cán bộ, giỏi đến mức: Có thể, đổi trắng – thay đen.
Mình, có thể, trơ tráo đến mức: Dùng, lũ kẻ cướp, làm quan tòa và đẩy nạn nhân của chúng, xuống ghế bị cáo?
Mình, không bao giờ hèn hạ và sợ lão “Dân già”, đến mức: Không dám mở, 1 phiên tòa công khai. Cho Nhân dân và các nhà báo trong nước và quốc tế, tự do đến dự.
Nếu, các ông đã thật sự sẵn sàng: Ngọn nến ấy, xin tình nguyện, cháy lên. Để, góp phần xua đi màn đêm ngột ngạt – dối trá, đang bao trùm, cả xã hội Việt nam hiện nay. Nguồn sáng ấy, dù chỉ là le lói. Nhưng, phải có nó, Nhân dân Việt nam, mới sử dụng được “kính chiếu yêu”. Gian – tà, sẽ hiện ra, rõ mồm một. Việc đó, nguy hiểm cho các ông lắm đấy.

Cuối cùng, nhắc ông Chủ tịch: Trời, thì hanh. Dưới chân các ông đứng, lại toàn là cỏ khô. Chỉ cần, 1 giọt nến cháy rơi xuống, hậu quả sẽ khôn lường. Cuộc Cách mạng Tunisia và mùa xuân Ả Rập: Khởi đầu, cũng chỉ từ, ngọn đuốc tự nguyện của chàng trai Mohamed Bouazizi.
Ông Chủ tịch, làm gì mà không biết: Giữa “Dân già” và Bouazizi, có sự khác nhau căn bản, về chất.
Đừng có dại, đốt lửa lên. Để, ngọn lửa đó, có thể thiêu cháy, chính mình.
Chào ông.
Nguyễn Tiến Dân
T/B:
-Tôi, đã nhờ  tướng Nguyễn Đức Chung, Giám đốc Sở CA Hà nội, kiểm duyệt và chuyển lá thư này đến tận tay ông. Ông ta, không thể phản bác được, bất cứ 1 luận điểm nào, mà tôi đã nêu ra trong lá thư này. Ông ta, im lặng - bật đèn xanh, cho tôi công khai lá thư này. Không tin, ông có thể, đọc nó tại đây.
*********
Kính gửi: Thiếu tướng Nguyễn Đức Chung,
                  Giám đốc Sở Công an Thành phố Hà nội.
                  Đại biểu Quốc hội nước CHXHCN Việt nam
Tên tôi là: Nguyễn Tiến Dân.
https://lh4.googleusercontent.com/-3pP5nS4OFs4/VTwWNe16tuI/AAAAAAAAAE4/vcwhI0mTmwM/w235-h304/Nguyen%2BTien%2BDan%2Bdung%2B1.jpg
Địa chỉ: 208 phố Định Công Thượng – quận Hoàng mai – Hà nội .
Điện thoại: 0168-50-56-430.
Đã nhiều lần, viết thư cho ông. Nhưng, chưa lần nào, nhận được hồi âm. Những lá thư ấy, được cán bộ của phòng Chống phản động CA Hà nội, nhận trực tiếp từ tay tôi, ngay tại cổng chính của Sở CA Hà nội. Do đó, không thể nói, nó bị thất lạc và chưa đến tay ông. Sự im lặng của ông, chỉ có mỗi cách giải thích: Ông nói riêng và những cán bộ CS nói chung, đều rất khinh dân. Đối với đảng CS, người dân chúng tôi, thân phận, không hơn gì, bầy nô lệ. Chúng tôi, chỉ có bổn phận duy nhất: Đi làm, để nuôi các ông. Còn các ông, chỉ có bổn phận duy nhất: Bảo vệ đảng CS. Tâm tư – nguyện vọng của dân chúng, không phải, là mối quan tâm hàng đầu của các ông.
Thưa ông, cho đến giờ phút này: Tất cả những lời, mà các ông hứa – Tất cả những gì, mà các ông ký, đều đã theo gió mà bay đi. Làm việc với các ông, tôi đã hiểu, tại sao dân gian có câu: “Nói như Vẹm”. (VM – Việt minh)

Tuy vậy, tôi vẫn cố, kiên nhẫn thêm 1 lần nữa. Tôi, gửi cho ông, thư đòi tiền chính quyền CS. Ông, đọc và góp ý cho tôi nhé. Trường hợp, ông đồng tình với lá thư này: Xin ông, không cần thiết, phải thư qua – từ lại làm gì. Ông chỉ cần, im lặng như mọi lần. Thế, là đủ. Tôi, không dám, đụng đến thì giờ quí báu của ông.Vì biết, ông còn trăm công – ngàn việc, phải lo.
To, như bảo vệ đảng CS. Sao cho, nó không đi theo vết xe đổ của Nga xô và khối CS Đông Âu.
Nhỏ, như tìm kiếm lũ con nít: Mang cờ đỏ búa liềm, nhảy nhót – hát vang: “Như có bác Hồ trong ngày vui đại thắng”, ở vườn hoa Lý Thái tổ, ngày 14-3-2015.
Ngày ấy, cách đây 27 năm: Tổ quốc Việt nam của chúng tôi, bị mất đảo. Nhân dân Việt nam chúng tôi, bị mất đi 64 người con ưu tú. Các Anh, được lệnh đứng yên. Để, bọn “bạn vàng” của các ông, sát hại. Đó, là ngày giỗ của các Anh. Vì thế, nó không bao giờ, có thể, là ngày vui đại thắng của Nhân dân Việt nam và Tổ quốc Việt nam của chúng tôi.

Bọn, dùng vũ lực, cưỡng chiếm biển – đảo,  sông – núi và đất đai  của Tổ quốc chúng tôi: Chúng, là quân cướp nước. Đánh bạn, với quân cướp nước, chỉ có thể, là bè lũ bán nước.
Quân cướp nước vui. Vì, chúng cướp được của. Bè lũ bán nước vui. Vì, đi đêm với quân cướp nước, chúng được lũ giặc kia, lại quả. Bằng quyền lực – Bằng tiền vàng – Bằng rượu ngon và gái đẹp.
Cờ đỏ - búa liềm, được DLV trưng ra. Lời hát, được cất lên. Quá bằng, chúng tố cáo: Đó, ngày vui đại thắng của đảng CS Việt nam. Quá bằng, chúng tố cáo: đảng CS Việt nam, là lũ bán nước.

May mà, ông đã công khai cải chính: đảng CS, không cùng hội – cùng thuyền với lũ DLV đó. Bọn, dám công khai, bày tỏ niềm hân hoan và nguyện cam tâm, đem tấm thân dê – chó ra, để làm tôi tớ cho giặc.
Sao, ông không ráo riết, lùng bắt chúng. Để, chứng minh cho lời nói của mình. Chưa bắt được chúng: Bởi, nghiệp vụ của ông, quá tồi. Chứ làm sao, Nguyễn Đức Chung, lại có thể, đồng lõa với lũ phản Quốc. Phải không ông?

Ông ơi. Khi nào, bắt được chúng: Hãy, mang chúng ra, mà xử công khai. Đồng thời, trị tội chúng thật nghiêm. Để, chứng minh với Nhân dân Việt nam, rằng: Đảng CS Việt nam, không bao giờ, đồng lõa với giặc. Đảng CS Việt nam, không bao giờ quên, những người con ưu tú nhất của Dân tộc, đã ngã xuống: Cho đảng CS, được lên cầm quyền. Cho đảng CS, được ăn trên – ngồi trốc, trên đầu trên cố Nhân dân Việt nam.
Không bắt được chúng, chứng tỏ: Mình, vừa dốt – vừa hèn. Dám bắt chúng: Sự nghiệp của mình, được coi như, chấm dứt tại đây. Toàn những, “nhiệm vụ bất khả thi”. Ông nhỉ.
                                                             Hà nội, ngày  31  tháng   3   năm  2015
                                                                                 Chào ông
                                                                        Nguyễn Tiến Dân
T/B: -Nhờ ông, gửi giúp bức thư đính kèm, đến tay Chủ tịch nước Trương Tấn Sang.
        -Nếu, 2 ông không có ý kiến gì: 7 (bảy) ngày sau, xin công khai, cả 2 lá thư này.

__._,_.___

Posted by: "theheviet" 

Featured post

Lisa Pham 15.04.2024

Popular Posts

My Blog List