TỪ HỒ CHÍ MINH TỚI NGUYỄN PHÚ TRỌNG,
CSVN TRƯỚC SAU VẪN BÁN NƯỚC CHO TÀU
--
Kính
chuyển
MG
TỪ
HỒ CHÍ MINH TỚI NGUYỄN PHÚ TRỌNG,
CSVN
TRƯỚC SAU VẪN BÁN NƯỚC CHO TÀU
MƯỜNG
GIANG
Thật ra
CSVN theo Tàu cũng đâu có gì lạ, vì mấy chục năm về trước khi vừa cướp được
chính quyền vào tháng 9-1945, Hồ Chí Minh và đồng đảng đã thực hiện ngay bước đầu
lừa đảo dân tộc và thế giới bằng xảo thuật đưa quân Pháp (mới vào Sài Gòn thay
quân Anh-Ấn) ra Bắc thế chân quân Trung Hoa đang giải giới quân Nhật tại đây.
Như Trường Chính lúc đó là nhân vật thứ 2 trong cộng đảng VN sau HCM đã viết “
Pháp ra Bắc thế quân Trung Hoa của tướng Lư Hán về nước là mối lợi lớn cho đảng
ta, rãnh tay tiêu diệt các đảng phái và lực lượng quân sự của Người Việt Quốc
Gia. Pháp ra Bắc tất nhiên phải ký kết và điều đình với đảng ta. Ðó là một công
nhận và thắng lợi quốc tế. Pháp tới đây không sớm thì muộn cũng gây hấn và tấn
chiếm lại miền Bắc. Ðây là cơ hội để đảng ta đoạt quyền lảnh đạo cả nước trong
Mặt Trận Việt Minh chống Tây, mộr cách danh chánh ngôn thuận “.
Và mọi thu xếp được trôi chảy như kế hoạch của Hồ. Ngày 6-3-1946 Việt Minh và
Pháp ký hiệp ước Sơ Bộ, theo đó Pháp thừa nhân
nước VN Dân Chủ Cộng Hòa của Hồ và đảng CS. Ngày 18-3-1946 quân Pháp của tướng
Leclerc vào Hà Nội với sự tiếp đón mừng rở thắng lợi của tập đoàn HCM trong bước đầu ‘ rước quân Pháp
vào đất Bắc để dầy Mã Tổ Hồng Lac ‘.Một bi thảm của lịch sử trong giai đoạn này
chứng tỏ tính ưu việt của đảng Hồ, chỉ biết ‘ khôn nhà dại chợ ‘ trong khi thẳng
tay bắn giết người Việt QG và để mặc cho Pháp tiến chiếm hết miền Bắc. Cuối
cùng ngày 19-12-1946 bùng nổ cuộc chiến Ðông Dương lần thứ I (1946-1954) . Ðây
là một cuộc chiến mà theo nhận định của hầu hết các sử gia trên thế giới kể cả
Pháp, đều cho là không cần thiết trước phong trào giải phóng các dân tộc nhược
tiểu, sau khi thế chiến II kết thúc (1939-1945) đang nở rộ khắp hoàn cầu. Tại
Châu Á, các thuộc địa của Anh, Hòa Lan, Hoa Kỳ như Ấn Ðộ, Miến Ðiện, Mã Lai,
Singapore, Nam Dương, Phi Luật Tân.. không tốn một giọt máu hay viên đạn, cũng
đã được độc lập.
1-Hồ
Chí Minh Rước Tàu Ðỏ Vào VN, Trong Cuộc Chiến Ðông Dương Lần Thứ I :
Sau khi quan hệ ngoại giao Việt-Hoa trở nên xấu từ năm 1976, thi VC đã công bố
cái gọi là ‘ Bạch Thư ‘ để gọi là ‘ vạch trần âm mưu bộ mặt phản động của bọn
bành trướng Bắc Kinh ‘.VC viết rằng ‘ Tàu đỏ phải tham chiến tại VN vì mối nguy
cơ ở mạn Nam do cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp gây ra’. Nhưng cuối
cùng VC vẫn không bao giờ dám quên ơn của Trung Cộng đã cung cáp vũ khí và quân
trang dụng cho Việt Minh đạt được chiến thắng tại Ðiện Biên Phủ vào năm 1954.
Ngay từ tháng giêng năm 1949, nhìn rõ được chiến thắng gần kề của Mao tại Hoa Lục,
nên HCM đã triệu tập Hội nghị trung ương lần thứ 6, để chuẩn bị đón quân Trung Cộng sắp tới biên giới
Hoa-Việt. Do đó không ai ngạc nhiên khi thấy Tàu đỏ là nước đầu công nhận
chính phủ của đảng Hồ vào ngày 10-1-1950. Rồi tức khắc Hồ bí mật sang Tàu cầu
viện và được Mao thỏa mãn đủ mọi thứ theo đơn xin. Nên từ đó (1950) tới ngày nay, liên tiếp bao chục năm HCM cũng
như đảng cộng, phải đời đời nhớ ơn Tàu đỏ, coi ngày 10-1 như là một trong những
quốc lễ trọng đại, đánh dấu bước đầu tiên Hồ rước voi Tàu về dầy mã Việt. Ðó là
một chân lý không dời đổi của các chóp bu tại Bắc Bộ Phủ, trừ phi CSVN không
còn tồn tại nữa ! .
Nhưng để nhận được viện trợ, HCM đã phải ký với TC một thỏa ước đầu tiên về
quân sự, đổi lai Mao cho Hồ mọi thứ tức khắc không cần hoàn trả ‘ như 150.000 vủ
khí lấy được của Nhật và 10.000 súng carbin M-1 do Mỹ chế tạo. Tuy nhiên không
có của nào là của cho không, nhất là với đàn anh Tàu đỏ, đòi hỏi HCM phải giúp Trung Cộng quét
sạch biên giới Hoa Việt để tiêu trừ dùm Mao, số tàn quân của Tưởng Giới Thạch còn
trong rừng núi Thập Vạn Ðại Sơn thuộc tỉnh Quảng Tây. Ðây là quân lệnh, nên Hồ
phải tức tốc điều động hơn 20.000 bộ đội Việt Minh sang hành quân giúp Tàu đỏ, được
che đậy bằng hình thức ‘ huấn luyện quân sự ‘.
Ðồng thời Mao cử tướng Trần Canh cầm đầu một phái bộ quân sự Tàu đỏ đông đảo tới
tổng hành dinh của Việt Minh tại Việt Bắc, để trực tiếp chỉ đạo guồng máy chiến
tranh ‘ Việt-Pháp ‘.Sau đó có thêm Vi Quốc
Thanh cầm đầu đoàn ‘ cố vấn quân sự ‘ và Lã Quý Ba cầm đầu đoàn ‘ cố vấn chính
trị ‘ . Tóm lại qua sự hiện diện đông đảo của cố vấn Tàu và nhiều cán bộ VC từng
hoạt động chung với Hồ tại miền Nam Hoa Lục trước đây nên rất thông thạo tiếng
Tàu. Tất cả làm thành một mạn lưới chằng chịt ‘ theo Tàu ‘ trực tiếp lãnh đạo
CSVN.
Do đó vào tháng
5-1950, HCM đã ra chỉ thị đặt Liên Khu Ủy Việt Bắc dưới quyền điều động của các
cố vấn Trung Cộng. Thật ra không phải đợi tới khi Mao chiếm được Hoa Lục mới
giúp đở VM mà là hai bên đã có quan hệ từ trước . Tháng 8-1946 Tàu đỏ cho cán bộ
tuyên vận sang giúp Hồ làm công tác tuyên truyền trong giới Hoa kiều sinh sống
tại VN. Năm 1947, Mao thành lập đội quân hơn 5000 người hoạt động tại biên giới
Hoa Việt, giúp đà cán bộ Việt Minh. Mao còn giúp Hồ
mở một cơ sở thương mại tại Vọng Các (Thái Lan) đã đóng cửa năm 1950 khi chuyển về Rangoon (Miến Ðiện), để
trực tiếp mua vũ khí Mỹ qua trung gian của Anh và Thái Lan. Số súng đạn này sau
đó được gửi bằng tàu thủy tới Bắc Việt.
Ðây là nguồn vũ khí quan trọng mà Việt Minh đã sử sụng trong thời kỳ 1947-1950,
trước khi Hồ chính thức sang cầu viện Trung Cộng.
Tháng 6-1950 qua quân lệnh của toàn quyền Tàu đỏ là Vi Quốc Thanh, bộ đội Việt
Minh dưới quyền Võ Nguyên Giáp mở chiến dịch biên giới Việt-Hoa, kéo dài từ
đông sang tây hơn 300 km. Ðây là thâm ý của Trung Cộng lợi dụng chuyển vận quân
dụng tiếp tế cho VM để bắt HCM bỏ ngỏ biên giới Hoa Việt khi quân Pháp rút khỏi
Cao Bằng. Từ đó Tàu đỏ tự tung tự tác, lần hồi xua người vào VN và lấn
đất, coi hai nước Hoa-Việt chỉ là một, dưới quyền lảnh đạo của Mao Trạch Ðông.
Trước thất bại nhanh chóng của quân Pháp ở Bắc Kỳ và sự bành trướng xuống Nam
Phương một cách ồ ạt lộ liễu của Trung Cộng, bó buộc Mỹ phải nhảy vào vòng chiến
bằng cách viện trợ quân sự cho Pháp và Chính phủ Bảo Ðại vào ngày 23-12-1950.
Cuộc chiến VN giữa VM và Pháp, bắt đầu từ năm 1951 về sau có thêm TC, Liên Xô,
Ðông Âu, Hoa Kỳ tham dự, đã trở thành sự đuơng đầu giữa hai khối Ðông-Tây, nên
các sử gia mới gọi là cuộc chiến Ðông Dương lần thứ I (1946-1954).
Ðầu Hè 1951, TC lại ký thêm với HCM tại Nam Ninh (Quảng Tây) một thỏa ước mới về
viện trợ quân sự. Và nơi này đã trở thành một căn cứ tiếp nhận quân viện lớn nhất
của VM. Hàng hóa được chuyển bằng xe lửa và xe ô tô tới Việt Bắc liên tục ngày
đêm không dứt. Nhưng từ năm 1952,
hai bên TC và HCM bắt đầu ký cái gọi là Hiệp Ứớc Trao Ðổi Hàng Hóa. Theo đó, TC
cho VM súng đạn, quân trang dụng và HCM trả lại bằng Lâm Sản (các loại gổ quý)
cùng các sản phẩm Nông Nghiệp kể cả thuốc phiện sản xuất tại Lào và Bắc Việt.
Từ năm 1953 TC và Việt Minh đã tiếp cận tại biên giới Việt Hoa tại Hải Ninh tới
Thượng Lào. Do đó quân viện càng thêm dễ dàng, mỗi
tháng VM nhận từ 3000 - 5000 tấn viện trợ, kể cả các loại súng đại bác và xe vận
tải. Nhiều ngàn cố vấn và quân sĩ Hồng quân được gởi tới chiến đấu bên cạnh bộ
đội VM gồm đủ quân binh chủng. Chính Hoàng Văn Hoan là người trực tiếp chịu
trách nhiệm việc nhận lảnh tiếp liệu cũng như thương thuyết với TC về quân viện.
Ðầu tháng 12-1953 VM lập đảng ủy và bộ chỉ huy mặt trận Ðiện Biên Phủ do Võ
Nguyên Giáp chỉ huy nhưng dưới quyền của Vi Quốc Thanh, cố vấn quân sự của TC.
Ðây là một thung lũng ở phía tây Bắc Việt sát biên giới Lào, cách Hà Nội 300
km. Trận chiến tại đây đã chính thức bùng nổ vào ngày 13-3-1954. Theo kế hoạch
VM sẽ tấn công Pháp vào ngày 25-1-1954 nhưng Vi Quốc Thanh nói Giáp đã có nhiều
khuyết điểm khi bố trí trận địa nên bắt HCM ra lệnh đình chỉ cuộc tấn công. Kể
từ đó binh quyền hoàn toàn nằm trong tay Thanh và TC đã thay
đổi toàn bộ kế hoạch trước kia của Giáp. Tóm lại Tàu đỏ đã dùng chiến thuật đè người, sử dụng tới 50.000 quân tham chiến + 25.000 trừ
bị, áp đảo 13.000 quân Pháp cố thủ trong căn cứ, thật sự chỉ có nữa quân số tác
chiến được. Sau 55 ngày đêm giao tranh đẳm máu, đúng 17 giơ 30 ngày 7-5-1954 Ðiện Biên Phủ
thất thủ, tướng De Castries và toàn bộ tham mưu đầu hàng, 13.000 quân lớp chết,
số còn lại bị bắt làm tù binh.
Ngày 20-7-1954 hiệp định đình chiến Geneve được ký kết giữa Pháp và VM, có sự
tham dự của Nga, Anh và TC. Riêng Hoa Kỳ không ký vào bản hiệp ước. Theo đó VN bị chia thành 2 miền Nam-Bắc lấy con sông Bến Hải
(Quảng Trị) tại vĩ tuyến 17 làm giới tuyến. Ngày 10-10-1954 bộ đội VM tiếp thu
Hà Nội, quân Pháp và các lực lượng thuộc Quân Ðội QGVN rút về Nam.
2-Hồ
Lại Rước Tàu Ðỏ Vào VN Trong Cuộc Chiến Ðông Dương Lần thứ II (1960-1975) :
Sau ngày chia đôi VN tại vĩ tuyến 17 (20-7-1954), Mỹ thay Pháp đổ quân vào VN
nói là để ngăn chặn Tàu đỏ đang tiến xuống phương Nam. Từ đó VNCH trở thành tiền đồn chống Cộng tại Ðông Nam Á.
Ngày 8-9-1954 Mỹ thành lập tại Manila (Phi Luật Tân) Tổ chức Minh ước Liên
Phòng Ðông Nam Á viết tắt là SEATO gồm Mỹ, Anh, Pháp, Úc, Tân Tây Lan, Hồi Quốc,
Thái Lan và Phi Luật Tân, VNCH, Lào và Kampuchia. Ngày 7-7-1954 nội các Ngô
Ðình Diệm được thành lập. Ngày 23-10-1955 qua cuộc trưng cầu dân ý, Thủ tướng
Diệm trở thành vị Tổng Thống đầu tiên của nền Ðệ I Cộng Hòa Miền Nam, thay thế
Quốc trưởng Bảo Ðại bị truất quyền. Quân đội QGVN cũng chính thức trở thành
QLVNCH trong sứ mệnh giải giới và tiểu trừ các lực lượng Bình Xuyên (Bảy Viển),
Cao Ðài, Hòa Hảo và Việt Cộng.
Giai đoạn này, sỡ dĩ HCM phải đình hoản kế hoạch xâm lăng VNCH, chỉ vì miền Bắc
đang biến loạn về vụ tàn sát đồng bào trong chiến dịch cải cách ruộng đất vào
năm 1955-1956 với gần nữa triệu người dân vô tội, đều là các nạn nhân thảm tuyệt
của các cuộc đấu tố trên. Cuối năm 1958 Lê Duẩn từ Nam ra Bắc báo cáo tình hình
nên HCM đã mở hội nghị trung ương đảng lần thứ 15, quyết tâm xăm lăng để cưởng
chiếm miền Nam VN bằng vũ lực. Chiến cuộc Ðông Dương lần thứ 2 (1960-1975) được
mở đầu bằng cái gọi là ‘ Ðồng Khởi ‘ tại Trà Bồng (Quảng Ngãi) và Mõ Cầy (Bến
Tre). Ngày 6-1-1961 tổng bí thư Liên Xô Nikita Khrushchev phát pháo cuộc chiến
tranh giải phóng toàn cầu, CSVN chính là tên lính xung kích mở màn cho cuộc chiến
xâm lăng VNCH qua bình phong Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam (MTGPMN).
Cũng trong năm 1958, để được Trung Cộng hổ trợ mở hai con đường chiến lược xâm
lăng miền Nam trên bộ cũng như dưới biển, Hồ Chí Minh đã nhẩn tâm đem hai quần
đảo Hoàng Sa & Trường Sa của VN có từ lâu đời, lúc đó thuộc lảnh thổ VNCH, nhượng bán cho Trung Cộng qua
danh xưng “ Tây Sa, Nam Sa “.
Rồi chiến tranh lan rộng, CS Bắc Việt tiến hành các hoạt động khủng bố giết hại
đồng bào vô tội, mục đích bắt VNCH phải phản ứng, để vin vào đò chụp mũ Chính
quyền Ngô Ðình Diệm không chịu thực thi tổng tuyển cử theo hiệp định Geneve
1954.. nên người miền Nam (MTGPMN) phải đứng lên chống lại. Rồi chế độ gia đình trị của nhà Ngô, được Hà Nội lợi
dụng và khai thác một cách triệt để, làm sụp đổ nền đệ I Cộng Hòa Miền Nam, qua
cuộc binh biến lần thứ hai, vào ngày 1-11-1963 tại Sài Gòn.
Ngày 8-3-1965, Lữ đoàn 9 TQLC là đơn vị bộ binh tác chiến đầu tiên của Mỹ, đổ bộ
vào Ðà Nẳng.. và theo thời gian tăng lên tới 184.000 quân vào cuối năm 1965. Từ
đó tới cuối năm 1969 có hơn nữa triệu quân Mỹ và Ðồng
Minh tham chiến tại VN. Theo P.Lowe. Ed trong ‘ The Vietnam War ‘ và C.Jian viết
‘ China and the Vietnam Wars 1950-1975 ‘ được Trung Cộng phổ biến gần đây cho
biết, cùng thời gian Mỹ đổ quân vào VNCH thì quân Tàu đỏ cũng dồn dập tuôn vào
đất Bắc theo thỉnh cầu của Hồ Chí Minh với Mao Trạch Ðông ngày 16-5-1965. Tính
tới cuối năm 1968 đã có 7 sư đoàn công binh và 16 sư đoàn (63 trung đoàn) pháo
binh phòng không Hồng quân, lo việc phòng thủ đất Bắc từ Thanh Hóa tơí biên giới Hoa-Việt. Quân TC còn đóng tại khu mỏ Quảng Ninh, vùng tự
trị Bắc và Tây Bắc Việt cũng như tại Yên Sở phía nam Hà Nội.
Tóm lại từ giữa năm 1965 tới cuối năm 1968, TC đã gửi 320.000 bộ đội, công nhân
và các chuyên viên kỹ thuật đủ mọi ngành tới quân viện cho Hà Nội theo thỉnh cầu
của HCM. Ðây không phải là một nghĩa vụ nhiệt thành sử dụng đấu tranh quân sự
giúp Bắc Việt thống nhất hai miền Nam-Bắc VN. Thực chất là một sự lợi dụng máu
xương người Việt của Tàu Ðỏ qua CS Bắc Việt được coi như là một phương tiện ‘
xác người ‘, để đẩy người Mỹ ra khỏi Lào và VNCH. Ý đồ trên đã do chính miệng
Thủ tướng TC Chu Ân Lai tuyên bố với Tổng thống Ai Cập Gamal Addel Nasser vào
tháng 6-1965 tại thủ đô Cairo của Ai Cập ‘ quân viện cho Hà Nội để ngăn ngừa
Hoa Kỳ tấn công bằng nguyên tử vào Hoa lục.. ’ ’ ’
Và để cho Mỹ càng
lún sâu và đổ máu thêm nhiều tại chiến trường Ðông Dương, tạo an toàn vững chắc
cho biên giới phía Nam Trung Hoa, Mao Trạch Ðông đã hào phóng cấp cho Hồ hơn
30.000 xe vận tải Molotova để chuyển vận hơn 10.000 tấn quân trạng dụng xuyên
đường mòn trường Sơn Ðông và Tây tới chiến trưồng miền Nam. Ngoài ra Mao còn chỉ
thị cho Sihanouk phải mở rộng các hải cảng của Kampuchia để tàu của Trung Cộng
và các nước Ðông Âu, Cu Ba, Bắc Hàn kể cả LX.. đổ vũ khí, thực phẩm, quân trang
dụng tiếp tế cho VC.
Nhưng từ đầu năm
1968 tình đồng chí giữa Tàu đỏ và Việt Cộng đã bắt đầu rạn nứt vì Hà Nội không
muốn Bắc Kinh xen vào nội bộ hai nước Lào và Kampuchia, lúc đó gần như là chư hầu của
VC. Còn Trung Cộng thì cấm CSVN liên hệ trực tiếp với Mỹ. Cũng vì vậy mà Mao đã
ra lệnh triệt thoái hết Hồng quân về nước vào tháng 3-1969.Trung Cộng đã làm một
con đường chiến lược từ Vân Nam tới Bắc Lào và để 20.000 quân chiếm đóng
có nhiều đơn vị pháo binh phòng không yểm trợ.
Ðạo quân này ngoài
danh nghĩa là phòng vệ biên giới phía Nam Trung Hoa đề phòng sự tấn công của
Hoa Kỳ nhưng ý đồ chính là để
quân bình cán cân lực lượng quân sự với CSVN ở Lào. Năm 1974, Chu Ân Lai đã nói
thẳng với Kissinger rằng ‘ quân Trung Cộng hiện diện tại Lào với mục đích cầm
chân CSVN thống trị toàn cõi Ðông Dương ‘.Tuy
nhiên Hà
Nội đã phá vở kế hoạch trên của TC qua việc ám sát các lãnh tụ Pathet Lào thân
Tàu đỏ. Và cũng nhờ biến cố Sihanouk bị đảo chánh năm 1970 tại Kampuchia, mà
tình đồng chí giữa ba đảng CS tại Ðông Dương được hợp tác lại để cùng chống Mỹ, cho tới tháng 5-1975 mới tan rã.
Còn Nga đã
không bỏ lỡ cơ hội nhảy vào trám chổ của TC, gia tăng quân viện giúp CS Bắc Việt
tạo thêm áp lực mạnh về quân sự tại Nam VN, để chiếm ưu thế chính trị trên bàn
hội nghị đang tiếp diễn và kết thúc tại Ba Lê vào tháng 1-1973 với kết quả ‘ Mỹ
rút hết quân về nước để đổi lấy sự tái đắc cử Tổng thống kỳ 2 của Nixon. Quân
CS Bắc Việt được Mỹ cho phép ở lại Nam VN để tiếp tục cuộc chiến tranh xâm lược’.
Khi chiến thắng của QLVNCH gần kề thì người Mỹ vì quyền
lợi riêng tư đã phá vở bằng những điều khoản vô lý ký kết với Bắc Việt trong
cái được gọi là ‘ hiệp định ngưng bắn tai VN năm 1973 ‘.Cũng từ đó,
VNCH tứ bề thọ địch với nội thù khắp mọi nơi kể cả chốn hậu phương. Tàu đỏ nhân
cơ hội này, đã công khai bành trướng tham vọng chiếm đất đai của dân tộc Việt,
mà khởi đầu là Quần Ðảo Hoàng Sa ngoài Ðông Hải vào ngày 19-1-1974. Hải Quân
VNCH đã chiến đấu can trường gây rất nhiều tổn thất cho giặc nhưng cuối cùng vì thân phận nghiệt ngã của nước nhược
tiểu nên phải đành bỏ mất một phần quê hương cho hải tặc Trung Cộng. .
Rồi Tổng thống Nixon
phải từ chức vào ngày 9-8-1974 qua vụ nghe
trộm điện thoại hay Watergate nhưng nội bộ nước Mỹ cũng vẫn nát bấy như tương
Tàu vì sự mâu thuẩn càng lúc càng trầm trọng của cuộc chiến VN. Ngày 24-9-1974
lưởng viện quốc hội Mỷ biểu quyết ngân sách quân viện cho VNCH tài khóa năm
1975 chỉ còn 700 triệu Mỹ kim, khiến cho tiềm lực chiến đấu của Miên Nam VN bị
hạn chế vì đa số phi cơ, tàu thuyền, trọng pháo trở thành bất khiển dụng vì thiếu
cơ phận thay thế. Nên sự thất bại của VNCH vào trưa ngày 30-4-1975 trước cuộc
xâm lược của Cộng Sản Ðệ Tam Quốc Tế không làm sao tránh được dù sớm hay muộn
cũng thế thôi, vì đó là hệ quã được tích tụ bởi ba yếu
tố : ‘ giai cấp lãnh đạo trung ương bất tài, thái độ lừng khừng vô trách nhiệm
của người dân hậu phương và chính sách con buôn của đồng minh Mỹ ‘.
Sau này qua các tài
liệu được giải mật, chúng ta mới thấy rõ chủ đích của Kissinger khi soạn thảo hiệp định tháng 1-1973. Như lời Chu Ân Lai
đã nói với đại sứ Pháp tại Bắc Kinh Etienne Manach vào đầu năm 1973 rằng ‘ hiệp định Paris tháng 1-1973 có mục
đích chống lại bá quyền của CSVN tại
Ðông Dương ‘.Chính TC đã đòi hỏi Kissinger phải tạo điều khoản
20 trong hiệp định, là phải rút hết quân ngoại quốc ra khỏi lảnh thổ Lào và
Kampuchia. Trong lúc đó Mỹ lại nhượng bộ, để bộ đội Bắc
Việt ở lại Nam VN.
Trung Cộng còn thọc
gậy bánh xe gây chia rẽ nội bộ giữa Bắc Việt và cái gọi là Mặt Trận GPMN bằng
cách trực tiếp viện trợ quân trang dụng và tiền cho Mặt Trận qua ngã Cao Mên vì
từ đầu năm 1968, tình đồng chí giữa Tàu đỏ và Hà Nội đã rạn nứt. Và đó là
lý do trong trận tổng công kích Tết Mậu Thân (1968), Bắc Bộ Phủ đã tìm đủ mọi
cách nướng hết VC miền Nam và lùa chuột ra khỏi hang ổ, để Mỹ và QLVNCH tiêu diệt.
Sau đó mới đem cán binh miền Bắc vào thay thế để nắm trọn quyền chủ động trong cuộc
chiến xâm lược.
Cuối cùng sự kiện
CSVN từ sau tháng 5-1975 qua Lê Duẩn, đã liên hệ chặt chẽ với Liên Xô lúc đó là kẻ thù không đội trời
chung với Tàu đỏ, tạo ra mối đe dọa trực tiếp mà Bắc Kinh chưa hề nghĩ tới từ
năm 1949-1975. Năm 1972 Mao nối được liên hệ ngoại giao với Hoa Kỳ, tạm thời bới
được mối lo Mỹ lăm le nhảy vào Châu Á. Cuối năm 1978 trước khi xua quân xâm lược
VN, Ðặng Tiểu Bình đã sang Hoa Thịnh Ðốn thỉnh ý ‘ thiên triều ‘ sau đó mới quyết định dep ‘ con
chồn CSVN ‘ qua trận chiến biên giới Việt-Hoa ngày 17-2-1979, để bẻ bớt nanh vuốt
của con gấu Nga luôn đe dọa biên giới phía đông-đông bắc của nước Tàu.
Trong giòng lịch sử
dựng và giữ nước, dân tộc Việt chỉ được yên ổn khi Trung Hoa bị suy yếu vì nội
loạn và sự đe dọa của các dân tộc ở phía Bắc. Hằng ngàn năm qua, tư tưởng bảo
thủ của Tàu chẳng có gì thay đổi, nhất là trong giai đoạn hiện tại, nước Tàu
đang hùng mạnh giàu cólại được cầm đầu bởi
một tên đế quốc số 1 là Tập Cận Bình, qua tham vọng độc chiếm Biên Đông, làm chủ
Á Châu và thế giới bằng quân sự, kinh tế lẫn thủ đoạn lừa đảo lưu manh. Bởi thế
chuyện thôn tính và xóa sổ VN là chuyện có thật trong nay mai..
3-Sau
Ngày 30-4-1975: Từ Nô Lệ Đến Diệt Vong
Do những điều kiện nghiệt
ngã về địa dư và lịch sử, mà bao đời VN vẫn coi việc chống giặc Tàu như một thứ
tôn giáo trong nhân sinh quan của người Việt. Có thể nói nước Việt tồn tại bao
nhiêu năm cũng là bấy nhiêu năm đấu tranh máu lệ với giặc Tàu để giành giựt sự
sinh tồn. Chiến tranh đối với dân tộc Việt là cuộc đổ máu vì lý tưởng và bổn phận.
Chiến tranh là cơ hội để tồn vong trước sự xâm lược của ngoại bang. Nên đối với
giặc Tàu chỉ có chiến tranh ‘ ăn miếng trả miếng ‘ mới làm chúng chùm bước xâm
lược VN như lịch sử đã minh chứng..
Ngày thứ bảy
17-2-1979 lúc 3 giờ 30 sáng, 600.000 quân Tàu tiền pháo hậu xung, ào ạt mở cuộc
xâm lăng đại quy mô vào VN, trên vùng biên giới từ Lai Châu tới Móng Cáy. Đây là tình nghĩa vô sản quốc tế trong sáng giữa hai nước (hiện
đươc nhóm lãnh đạo Hà Nội Trọng, Thanh, Dũng, Sang..ca tụng qua bốn tốt, mười
sáu chữ vàng), đã trở thành hận thù thiên cổ. Những địa danh Cao Bằng, Lạng Sơn, Ðồng
Khê, Thất Khê.. lại đi vào những trang Việt sử đẫm máu của VN chống xâm lăng
Tàu.
Tóm lại sau 16 ngày
giao tranh đẫm máu, Trung Cộng cũng như Khmer đỏ, tàn phá tất cả tài sản của
dân chúng, bắn giết tận tuyệt người VN, san bằng các tỉnh biên giới, mà suốt cuộc
chến Ðông Dương lần II (1960-1975) gọi là vùng an toàn. Hằng trăm ngàn vừa dân vừa lính của cả hai phía thương
vong. Tại miền bắc, hằng triệu dân chúng phải phân ly. Nhà cửa, vườn ruộng, của
cải vật chất, đền đài, miếu võ, nhà thờ, di tích tổ tiên bao đời để lại.. đều
vì VC rước voi Tàu về dầy mã Tổ Việt, mà tan tành theo bom đạn.
Cuộc chiến tưởng đâu
đã chấm dứt, vì VC dấu nhẹm tin
tức từ ấy cho đến năm 2006
thì TC bật mí qua cái gọi là mạng lưới Internet
của Bộ Quốc Phòng Trung Cộng (Defense-China.com) và ‘ Dữ kiện bí mật của cuộc
chiến tranh Trung-Việt (Secret Records of Sino-Vietnamese War) ‘ của Jin Hui,
Zhang Hui Sheng và Zhang WEi Ming. Nhờ đó
cả thế giới
biết được ‘ Bí Mật Lịch Sử về việc Tàu chiếm Núi Ðất của VN, trong cuộc chiến
biên giới lần hai (1984-1989) ‘.Theo tài
liệu trên, năm 1984 Trung Cộng lại vin cớ CSVN thường pháo kích và tấn công biên
giới, nên bất thần tấn công cưởng chiếm Núi Ðất của VN tại tỉnh Hà Giang (Thượng
Du Bắc Phần), mở màn cho cuộc chiến Biên Giới Việt Hoa lần thứ hai, kéo dài từ
năm 1984-1989 mới chấm dứt, do Việt Cộng tự bỏ đất rút quân, nhượng bán (?) lãnh
thổ cho giặc Tàu, trong đó có đảo
Garma và nhiều rặng đá ngầm, san hô thuộc quần đảo Trường Sa của VN vào
năm1988,hiện TC đã bồi đáp thành một chuổi đảo kiên cố như vạn lý trường thành
trên biển Đọng..
Trong cung đình VC tuy Lê Duẩn chết nhưng phe theo Nga còn rất
mạnh do Lê Dức Thọ cầm đầu.. Nhưng từ năm 1986 Liên Xô đã bắt dầu cạn kiệt và
suy yếu nên CSVN quyết định bằng mọi giá ( bán nước hay làm nô lệ cho giặc), cũng
phải đầu hàngTrung Cộng để sống còn. Bởi vậy
Trường Chinh thuộc phe thân Tàu, lại được làm tạm tổng bí thư thay Duẩn vào ngày 14-7-1986..
Tháng 12-1986, đại hội VI bầu Nguyễn Văn Linh (Mười Cúc) làm tổng bí thư,
Phạm Hùng thủ tướng (Kiệt thay khi Hùng chết năm 1987 sau đó là Ðổ Mười từ
tháng 6-1988) và Võ Chí Công chủ tịch nhà nước. Riêng Chinh, Ðồng và Lê Ðức Thọ
đều về hưu nhưng vẫn giữ chức ‘ cố vấn tối cao ‘ trong đảng và bộ chính trị,
còn Lê Ðức Anh làm bộ trưởng quốc phòng
Và từ đó tới nay, nối tiếp theo gương bán nước của “
bác Hồ “, qua các tổng bí thư Nguyễn Văn Linh, Đổ Mười, Lê Khả Phiêu, Nông Đức
Mạnh, Nguyễn Phú Trọng , trước sau như một đều quyết tâm bằng mọi cách
làm chư hầu cho Tàu đỏ. Rồi để chứng minh sự
thành tâm sám hối, lòng trung
thành của tớ đối với chủ, ngay trong đại hội VI 1986 đảng đã nghị quyết ‘ đổi mới tư duy
‘ là việc ra lệnh bỏ câu ‘ Trung Cộng là kẻ thù trực tiếp và là kẻ thù nguy hiểm
nhất ‘ trong lời mở đầu của Ðiều Lệ Ðảng.
Ðại hội VI
(1986-1991) ngoài thành tích đổi mới kinh tế theo định hướng XHCH để tạo thêm đặc
quyền đặc lợi cho cán bộ, bộ đội, công an và tư bản đỏ làm giàu thêm nhờ than
nhũng và ăn cắp của công. Tháng 7-1987 hội nghị trung ương đảng họp và ban hành
nghị quyết số 2 cấm ‘ QUÂN ÐỘI NHÂN DÂN VN KHÔNG ÐƯỢC ÐỤNG CHẠM VỚI QUÂN TÀU ÐỎ
‘.Lệnh này được giữ kín mãi tới ngày 28-1-1990 báo Nhân Dân mới đăng tải.
Từ năm 1988, tình đồng
chí giữa VC và Nga Sô, Ðông Âu càng trở nên khó khăn vì tiền viện trợ đã bị cắt
giảm. Trong lúc cuộc đổi mới kinh tế mới vừa chập chững, mức sản xuạt lương thực
trì trệ khiến nạn thất nghiệp càng gia tăng vì Hà Nội cắt giảm quân số. Thừa nước
đục thả câu, Tàu đỏ đánh bồi thêm để cho VC phải quì gối cúi đầu xin xõ làm lại
đầy tớ cho chúng.
Sau vụ thảm sát
Thiên An Môn 1989, Tàu đỏ bị cả thế giới lên án nặng nề, do đó TC mới chịu quay lưng lại với CSVN. Tình hình khối XHCH càng biến
động thảm thê vào những tháng cuối 1989-1990 qua sự tan rã của CS Ðông Âu, Ðông
Ðức và đế quốc Sô Viết. Hầu hết những tên đầu sỏ khát máu độc tài bán nước hại
dân như Honecker (Ðông Ðức), Husack (Tiệp Khắc), Ceauscescu (Lỗ Mả Ni) .. kẻ
vào tù, người bị treo cổ đền tội.
Những biến cố chết
người kể trên làm giao động hốt hoảng tới đứng tim bọn chóp bu lớn nhỏ tại bắc
bộ phủ, nên đảng đã hop khẩn ngày 10-4-1990 với Nguyễn Văn Linh, Lê Ðức Anh,
Ðào DuyTùng, Ðồng Sĩ Nguyên.. đều nhất trí kết tội Mỹ đã gây ra ‘ diễn biến Hòa
bình ‘ làm sụp đổ Ðông Âu, Ðông Ðức và Sô Viết. Do đó đảng nghị quyết về nhu cầu
cấp bách phải ‘ THEO TÀU ‘ để cứu nguy cho XHCN, bất chấp những lời khuyến cáo
như ‘ TC chỉ lấy lợi ích của dân tộc mình là chính, chứ chẳng bao giờ thèm nghĩ
tới tình đồng chí XHCN’. Bởi vậy dù VN có muốn hòa hoản thì chỉ là ảo tưởng mà
thôi, đối với một láng giềng trước sau chỉ muốn tiêu diệt dân tộc Việt .
Và đó cũng là lý do
trong đại hội đảng VII (1991-1996) đã bầu Ðổ Mười (tổng bí thư), Lê Ðức Anh (chủ
tịch nhà nước), Võ Văn Kiệt (Thủ tướng) , Ðoàn Khuê (bộ trưởng quốc phòng)..
toàn là thành phần chủ trương ‘ đầu hang giặc Tàu ‘.Thời gian này, CSVN đã rút
quân khỏi Kampuchia về nước và cho giải ngũ gần nữa triệu người gây nên cảnh thất
nghiệp. Thêm vào đó viện trợ của Nga Sô, Ðông Âu, Ðông Ðức cũng không còn kể cả
chuyện ‘ xuất khẩu lao động ‘. Giai đoạn này Lê Ðức Anh đã cũng cố được phe
nhóm tại đảng và bộ chính trị, trong đó có Nguyễn Tấn Dũng sau này trở thành đồng chí
3X cái gì cũng dám bán, đồng thời đầy Võ Nguyên Giáp ra rìa và còn viết
sách làm phim bôi bác, phổ biến rộng rãi trong quân đội. Cũng từ đó tới nay,, quân đội VN chỉ
còn biết hiếu với đảng, trung với Tàu đỏ và làm kinh tế mà thôi.
Đại hội VIII (1996-2001) CSVN theo lệnh của Tàu đỏ, do Ðổ Mười và Lê Ðức Anh chủ xướng và lựa chọn
Lê Khả Phiêu (tổng bí thu thế Ðổ Mười), Trần Ðức Lương (chủ tịch nhà nước thế
Lê Ðức Anh) và Phan văn Khải (thủ tướng thay Võ Văn Kiệt). Bộ ba Mười, Anh , Kiệt về hưu nhưng vẫn là chức thái thượng hoàng. Đồnh chí Nguyễn Tấn Dũng (đàn em Lê Ðức
Anh) cũng được bầu vào ủy viên bộ chính trị, phó thủ tướng đặc trách kinh tế
kiêm thống đốc ngân hàng.
Tháng 2-1999 với tư
cách tổng bí thư, Lê Khả Phiêu sang chầu thiên triều, nối lại tình đồng chí giữa
hai đảng càng thêm thắm thiết. Tiếp theo Phạm Thế Duyệt, Nguyễn tấn Dũng, Nguyễn
Minh Triết, Lê Minh Hương, Nguyễn Ðức Bình, Nông Ðức Mạnh, Phan Văn Khải.. cũng
sang Tàu để nhận chỉ thị. Ðầu tháng 12-1999 thủ tướng TC Chu Dung Cơ sang kinh
lý VN. Ngày 30-12-1999 thỏa hiệp đưòng ranh biên giới Việt-Hoa được ký kết bởi
Nguyễn Mạnh Cầm (VC) và Ðường Gia Truyền (TC). Nhờ hành động nhượng bộ bán nước
trong vụ này (trên bộ lẫn dưới biển), mà Lê Khả Phiêu đã trở thành một trong những
tỷ phú đỏ VN như báo chí đã phanh phui vào tháng
2-2009.
Nông Ðức Mạnh
(gốc Mán ở thượng du Bắc Việt) qua hậu thuẩn của Mười, Anh và chỉ thị của TC,
nên được cho làm tổng bí thư trong đại hội IX. Còn Phan Văn Khải lưu nhiệm thủ tướng và Nguyễn
Minh Triết (Tàu sinh tại Bình Dương) thế Lương làm chủ tịch nhà nước. Kỳ này những
thành phần ‘ thân Tàu hay theo Tàu ‘ như Nguyễn Tấn Dũng, Lê Minh Hương, Nguyễn Phú Trong.. đều được ở lại
bộ chính trị để tiếp tục tìm đủ mọi cách bán nước cho giặc..
Ngày 26-4-2006 kết
thúc cuộc bầu bán dại hội X (2006-2011) với kết quả : Nông Ðức Mạnh vẫn làm tổng
bí thư, Nguyễn Minh Triết (Tàu Bình Dương) chủ tịch nước và Nguyễn Tấn Dũng
(đàn em Lê Ðức Anh) làm thủ tướng, Nguyễn Phú Trọng chủ tịch quốc hội gật và Phạm
Văn Trà bộ trưởng quốc phòng.
Tháng 11/2010 sắp bầu bán đại hội thứ XI nhưng đồng bào cả nước đang hứng chịu
nhiều nhân tai, thiên hoạ. Tất cả dư luận gần như chĩa vào thủ tướng Dũng, qua
các hành vi tham nhũng, rước Tàu đỏ vào Tây Nguyên (Bauxít)..cho tới các vụ phá
sản to lớn của công ty đóng tàu Vinashin, nhà máy điện Dung Quất, bùn đỏ Cao Bằng,
lụt lội miền Trung..và đại lễ 1000 năm Thăng Long. Nhưng nhức nhối hơn hết vẫn
là chuyện Tàu đỏ công bố bản đồ Trung Cộng mới tại biển Đông gọi là lưỡi bò,
coi như chiếm hết lãnh hải và hai quần đảo Hoàng Sa & Trường Sa của VN. Đây
là tai hoạ kinh khiếp của dân tộc, do Phạm Văn Đồng, Lê Khả Phiêu và Nguyễn Tấn
Dũng gây ra, qua các lần ký bán cho Tàu.
Nguyễn Phú Trọng thay Nông Đức Mạnh làm tổng bí thư trong lần bầu bán đại hội
XII 2012. Ngay khi vừa nhậm chức , Trong đã công khai hành vi làm tay sai và
chư hàu cho Tàu,qua lá cờ 6 sao của giặc. Đồng thời ra lệnh cho bộ đội, công an
và bọn côn đồ, thẳng tay đàn áp, giết chóc và bỏ tù những ai dám chống lại giặc
Tàu đang xâm lược và cướp phá nước Việt. Do sự đầu hàng và hèn hạ của toàn đảng,
nên TC càng lúc càng lấn lứot, hung hăng , côn đồ, có hành động không khác gì bọn
hải tặc công khai cướp giết người, coi thường Hoa Kỳ chẳng bao giờ dám phản
ứng bằng hành động..
Từ đầu năm 2014 tới nay,Trung Công công khai sử dụng vũ lực tại Biển Đông mà
chùng gọi là ao nha và sân sau, ngày đêm bồi dắp các đảo đã chiếm của VN, biến
thành căn cứ quân sự kiên cố trên biển. Ngang ngược nhất là việc TC đem giàn
khoan khổng lồ HD-981 vào tận lãnh hải của Việt Nam, từ ngày 2 tháng 5 để tìm dầu,
trước phản ứng lấy lệ, bằng cách cho vài chiếc tàu tuần sát bờ không trang bị
vũ khí và thuyền gổ của ngư dân Đà Nẳng-Quảng Ngãi ra đóng phim “ khỉ đột “
trên biển với hằng trăm tàu chiến lớn nhỏ của giặc..
Rồi như muốn thị uy với thế giới, TC lại cấm đánh cá từ đầu năm 2014, đồng thời
đưa hơn 44.000 tàu đánh cá đủ loại, chẳng khác nào một đoàn hải tặc, tung
hoành vơ vét cưởng đoat gần hết tài nguyên, hải sản của ngư dân các nước trong
vùng, mà thiệt hại nặng nề nhất về sinh mạng, vật chát vẫn là các ngư dân VN.
..
Việc Trung Cộng đưa giàn khoan vào hoạt động ngay trong hải phận VN, sau
đó bất ngờ rút giàn khoan về đảo Hải Nam trước thời gian ấn định, thật sự chẳng
làm ai ngạc nhiên, nhất là những người hằng theo dõi tin tức thời sự có liên
quan tới cái gọi là “ chuyện cười giàn khoan HD-981 của TC & VC “.. Điều mà
người VN trong và ngoài nước lo lắng là việc TC đưa giàn khoan HD-981 vào Biển
Đông là bước đầu trong việc xác nhận chủ quyền của giặc trên vùng lãnh hải
VN theo những giao kết bí mật giữa hai đảng đã bí mật ký kết tại hội nghị Thành
Đô năm 1990. Do đó TC đã nắm được tử huyệt của bọn lãnh đạo đảng tại Hà Nội,
nên mới dám ngang ngược tung hoành, những chuyện lạ này chỉ có ở VN mà chẳng
bao giờ có thể xãy ra tại vùng biển Nhật, Nam Hàn, Phi Luật Tận, Mã Lai..hay bất
cứ một quốc gia nào có chủ quyền trên thế giới.
Bán nước công khai tới múc độ không còn rào cản nào có thể làm chùn chân “ những
đỉnh cao trong Chân Dung Quyền Lực “ nên mấy ngày nay (5/5-10/5/2015) Trọng lại
vội vã cùng Thanh, Quang, Minh. sang chầu Tâp Cận Bình, để ký tiếp 7 mật ước với
Tàu , hoàn thành giấc mộng “ được làm chư hầu cho TC “.
Suy cho cùng, chúng ta mới hiểu nổi những lời ví von thâm thúy của tên bộ trưởng
quốc phòng đã sớm đầu hàng giặc Tàu từ lâu. Thanh nói đúng ví cuộc tranh
chấp mà thực chất là cuộc xâm lăng của giặc Tàu vào lảnh thổ VN hiện nay, được
bọn lãnh đạo CS Hà Nội xem như mâu thuẩn trong một gia đình . Về mâu thuẩn gia
đình, bởi vì Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh và phái đoàn của đảng CSVN Phạm
Văn Đồng, Đổ Mười..) đã xin cho Việt Nam được làm một khu tự trị trực thuộc
chính quyền Trung ương Bắc Kinh, và đã được “Giang Trạch Dân, Lý Bằng đồng ý và
chấp nhận đề nghị nói trên từ năm 1990 tại hội nghị Thành Đô. Thời kỳ Bắc thuộc.
Thời gian cuối cùng bàn giao lãnh thổ, chính quyền cho TC là năm 2020.
Viết từ Xóm Cồn
Hạ Uy Di
Tháng Tư 2015
MƯỜNG GIANG
__._,_.___
Posted by: Ho Dinh
No comments:
Post a Comment