Tổng Bí thư Nguyễn Phú
Trọng noi gương thái hậu Dương Vân Nga, tại sao không?
7.12.14 Chân
Dung Quyền Lực
Đây không phải là cách nói đùa
về chuyển hóa giới tính, mà là chuyện nghiêm túc về một hành vi cao cả có thật,
lưu truyền muôn đời trong lịch sử dân tộc Việt của Thái hậu Dương Vân Nga, rất
đáng cho hậu thế noi gương.
Thái hậu Dương Vân Nga
Khi vua Đinh Tiên
Hoàng cùng người con trưởng là Đinh Liễn đột ngột băng hà vì bị Đỗ Thích ám sát
sau một cuộc rượu, thì triều đình rơi vào rối loạn, quần thần ngơ ngác, chia
rẽ, chỉ còn Thái hậu Dương Vân Nga là đại biểu quyền lực cao nhất.
Xưa cũng giống nay,
khi nước Việt suy yếu, hay có vấn đề nội bộ bất ổn, thì giặc nhà Tống phương
Bắc đem quân sang xâm chiếm nước ta. Chúng hùng hổ tiến quân tràn qua biên
giới. Thập đạo tướng quân Lê Hoàn cấp báo tình hình về kinh thành. Thái hậu
Dương Vân Nga triệu tập các quan Đại thần, thuyết phục và tuyên bố giao quyền
lãnh đạo tối cao Quốc gia cho tướng quân Lê Hoàn, trao áo bào – tượng trưng uy
quyền và pháp lý của vương triều – cho Lê Hoàn. Lê Hoàn lên ngôi vua, ổn định
triều đình, làm yên lòng dân, thống lãnh toàn quân đối đầu với giặc. Ông đã đập
tan cuộc xâm lăng của giặc Tống, giữ được nền độc lập quốc gia, lập nên nhà
Tiền Lê. Công của Lê Hoàn là sáng chói trong lịch sử giữ nước, nhưng trong đó
lấp lánh một hạt kim cương hiếm có của lịch sử là hình ảnh của Thái hậu Dương
Vân Nga, là động lực khơi dậy lòng yêu nước của quan, quân và dân của nước Đại
Cồ Việt, là thái độ khẳng khái dứt khoát trước kẻ xâm lược, không tham quyền cố
vị, thông minh và thực tiễn. Bà lại trở thành Hoàng hậu, vợ của vua mới, đã đem
tình riêng ra mà hộ trì việc nước. Hậu thế không ai chê trách, chỉ trừ một đám
hủ nho u mê.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng
Ngày nay, thế nước
trong cơn khó khăn tương tự.
Tổng Bí thư Nguyễn
Phú Trọng, tuy không phải là Thái hậu của thời phong kiến, nhưng ông là tượng
trưng cho vương quyền do Đảng Cộng sản Việt Nam trao cho. Tuy là vai trò tối
cao của một đảng thôi, nhưng vì đảng ấy là duy nhất, lại là đảng nắm quyền cai
trị toàn diện đất nước, thì gọi vai trò của ông theo từ ngữ xưa, là “Hoàng Đế’
cũng chênh lệch không nhiều.
Sau mấy năm tại vị,
ông chưa làm được điều gì có thể gọi là thành công, nếu không nói là từ thất
bại này đến thất bại khác (kết sổ thì cũng rõ ràng), chứng tỏ cái tài thì không
có, nhưng vớt vát cũng có cái đức, vì chưa tai tiếng gì mấy. Phong cách ông hiền
lành, nho nhã, lại ham sách vở, và đặc biệt mê giáo điều xã hội chủ nghĩa. Vì
là con người của giáo điều nên ông có đức tính trung thành và có lập trường
kiên định: Đã định cái gì rồi thì kiên quyết không chịu thay đổi, mặc cho thời
thế có xoay vần! Kế tục đời Tổng Bí thư trước là Nông Đức Mạnh, ông Trọng trung
thành với tình hữu nghị gói trong 16 chữ bằng giấy do Trung Quốc tặng cho, xem
như bảo vật, ông đem dạy cho dân chúng từ trẻ nít đến người già học thuộc. Ông
trân trọng đem tấm thân “tứ đại giả hợp” của mình sang tận Đại quốc anh em, để
ký cái văn kiện xác định họ là “Đối tác chiến lược và toàn diện”, là cụm ngôn
từ thời thượng nhất, biểu trưng giá trị cao nhất thế giới hiện nay về sự gắn
kết giữa hai quốc gia, rồi lập thêm đường dây nóng cho hai nguyên thủ Quốc gia,
để có chuyện gì rắc rối giữa hai nước thì gọi nhau… Để chứng tỏ sự trung thành
với tình hữu nghị thiêng liêng, ông không tiếc lời chửi mắng con dân trong nước
dám biểu tình chống lại mối quan hệ khắng khít đó, ông cho đánh đập, nhục mạ, đứa
thì bị bỏ tù, đứa thì bị hăm he “xử lý”. Tuy nhiên, bọn “đối tác chiến lược
toàn diện” ấy có mưu mô thâm hiểm, từng bước trở quẻ, láo toét! Văn kiện chúng
xé toẹt, đường dây nóng chúng đem ướp đá lạnh, khi gọi chúng không thưa. Chúng
ào ạt đem tàu chiến, máy bay đến bao vây lãnh hải, truyền thông của chúng chửi
ta ra rả ngày đêm, bằng những từ ngữ thậm tệ, nói ngược, nói dối, phao vu…, xin
lỗi, như bọn côn đồ, dao búa.
Từ ngày chúng đem
tàu giàn khoan vào lãnh hải nước ta, cả tháng trời ông nín lặng, nghẹn ngào
không nói được lời nào, nhất là vụ ướp đá lạnh đường dây nóng làm ông bị quê.
Ông im lặng vì sợ hãi? Vì nhục? Vì không biết ứng phó ra sao? Vì tổn thương
tình cảm kiên định hun đúc lâu nay? Hay vì nó làm đảo lộn nếp tư duy giáo điều
trong ông, về tính “biện chứng” của tình “hữu nghị”? Những người cấp dưới cùng
tâm trạng và quan điểm với ông cũng im re, hoặc cố vớt vát biện hộ cho thái độ
tránh né cầu an của mình, bằng cụm từ “ổn định để phát triển”, lại bị Thủ tướng
Dũng mắng cho, là cái “ổn định viển vông”, vốn là một dạng lệ thuộc. Giặc đến
mà không chống, vì lý do“ổn định”, là ổn định cái nỗi gì! Lòng dân hết sức phẫn
nộ. Phẫn nộ kẻ cướp đã đành, lại phẫn nộ kẻ hèn nhát tạo thuận lợi cho giặc.
Theo Hiến pháp Việt
Nam 2013, do Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng lèo lái và chủ trì, thì Hiến pháp là
văn kiện cao nhất “sau cương lĩnh của Đảng”, thì ông Tổng Bí thư lại là người
có vai trò tối cao với sự hưng vong của quốc gia. Ông mặc nhiên được phép đóng
vai là người có “bàn tay sạch”, và thường là không chịu trách nhiệm về những
thất bại cụ thể. Nhưng nếu cái cương lĩnh mơ hồ của Đảng mà sai, thì có lẽ đó
là do “Chúa” chăng, và không ai được quyền nhắc tới? Ví dụ Hội nghị Thành Đô là
cái gì, mà trở thành “Kinh Thánh” với 16 chữ được ví như vàng? Hay gần đây, cái
“Tuyên bố chung” do chính ông Tổng Bí thư Trọng ký với Tổng Bí thư Hồ Cẩm Đào,
đã đem an ninh của quốc gia giao cho đối phương, chẳng khác chuyện Mỵ Châu vì
yêu đương quá mùi mà đem “nỏ Thần” giao cho Trọng Thủy?
Tuyên bố chung tám
điểm ký ngày 15. 10. 2011 tại Bắc Kinh có các dòng sau đây: “Đi sâu hơn nữa hợp
tác giữa hai nước trong lĩnh vực thi hành pháp luật và an ninh; Tăng cường giao
lưu và hợp tác giữa các cơ quan như tòa án, viện kiểm sát, công an, hành chính,
tư pháp; . . . tăng cường phối hợp và ủng hộ lẫn nhau trong việc giữ gìn ổn
định trong nước của mình.”. Vậy là không sót thứ gì trong lục phủ ngũ tạng được
thực hiện hơn 3 năm qua, tính từ ngày ký, chứ đâu chỉ có mỗi cái nỏ Thần như
chuyện Mỵ Châu? Trong khi Bắc Kinh đang tiến hành đủ trò khả ố, bất lương với
nước ta, thì thử hỏi, đó là văn kiện gì? Là văn kiện hợp thức hóa cho kế hoạch
thâm nhập toàn diện của Bắc Kinh vào an ninh nội địa Việt Nam? Thực chất là
“ủng hộ” họ xâm nhập vào nước ta, chứ ta thì không thể bước qua biên giới họ.
Chữ “lẫn nhau” sao đầy mờ ám và mê muội! Các cuộc biểu tình của nhân dân ở Vũng
Áng, Đồng Nai… do đâu mà trở thành bạo động, manh động mà nhân dân, kể cả cái
trời ơi “Việt Tân”, đều ngơ ngác khi bị lên án là thủ phạm? Không phải là kết
quả của sự “ủng hộ lẫn nhau” đó sao? Cái “Thông cáo chung” ấy đã đến lúc cần
phải đem ra “xử lý” được chưa? Khi lên chức Tổng Bí thư, ông tưởng đã đem về
cho đất nước một văn kiện thành tích trang trọng, bỗng hóa thành nghiêm trọng!
Nghiêm trọng hơn rất nhiều cái “thành tích ảo” mà ông nói là cần chấm dứt ngay,
với Bộ trưởng Luận vừa rồi về nền giáo dục be bét.
Trong lúc tình hình
dầu sôi lửa bỏng của cả nước, của khu vực và thế giới, ông im hơi đi vào cái
“tổ thảo luận” của Quốc hội, luận thuyết với bậc đàn em về cái công thức rất rẻ
tiền: “tín nhiệm cao - tín nhiệm - tín nhiệm thấp”, “không được tín nhiệm thì
nghỉ”, rồi chừng như thỏa mãn – cái thỏa mãn của anh tiểu nông có lòng dạ nhỏ
nhen của thời chưa có internet: “có khối anh sợ!”, tưởng tượng là ông đang mỉm
cười hài lòng. Vui thật! Ngày xưa có những ông vua chỉ thích chơi gà chọi.
Nhưng còn chính ông thì sao nhỉ? Nếu hỏi nhân dân thì biết ngay. Nếu hỏi Đảng
trung ương, thì chịu thua, vì đó là chuyện riêng về ghế bàn của họ, không dính
tới nhân dân, nhưng chuyện bàn về cái ghế lại cực kỳ quan trọng, vì nó liên
quan đến vận mệnh Quốc gia, như cái ghế mà ông Tổng đang ngồi.
Hai trụ triều đình
Cũng cần nói qua về
hai trụ triều đình kia cho có chút công bằng. Chủ tịch Quốc hội, ông Nguyễn
Sinh Hùng, theo ông nhà báo Kami nhận xét, là người không có lập trường. Hình
tượng về ông là ngọn cỏ thơ mộng, gió chiều nào ta nghiêng theo chiều ấy, gió
chưa mạnh ta lao xao ẻo lả đợi tBộ ba Tổng bí thư đảng CSVN Nguyễn Phú Trọng
(trái), Chủ tịch nước Trương Tấn Sang (phải) mặt mũi đăm chiêu trong khi Thủ
tướng Nguyễn Tấn Dũng (đứng sau) mặt mũi tươi cười trước lúc khai mạc khóa họp
Quốc Hội ngày 22 tháng 10, 2012hời. Về ông Chủ tịch nước Trương Tấn Sang, tuy
chức cao nhưng thích làm chuyện thâm thấp, ông muốn nép mình trong bụi mận gai.
Là Chủ tịch nước, nhưng ông chỉ thích nói chuyện với một số cử tri quen quen
của mấy phường ở Quận 1, nơi mà ông có tư cách là dân biểu. Nói ở chỗ không
xứng tầm xem như không nói. Ông giấu mất cái chức Chủ tịch nước của mình. Nhớ
ngày nào ông rất hăng hái, tích cực đăng đàn, hô hào nhân dân bắt sâu với tất
cả quyết tâm hằn học. Nhưng nếu có dịp êm ả, ông cũng thỏ thẻ như kiểu thân
tình, như mới đây, trong dịp tiếp Tân Đại sứ Trung quốc Hồng Tiểu Dũng, 19.
5.2014, ông nói với họ: “phát huy tốt vai trò cầu nối quan trọng, đóng góp
thiết thực cho quan hệ hữu nghị và hợp tác toàn diện giữa hai Đảng, hai Nhà
nước”. Họ đã “đóng góp” hết sức thiết thực đấy thôi, ở giàn khoan, trong đất
liền như vụ Vũng Áng, Đồng Nai, và các thứ công trình kéo dài nham nhở. Cầu nối
to không tới đâu, bây giờ mong cái cầu nối nhỏ, lại tiếp tục bài ca “hữu nghị,
hợp tác toàn diện”! Nhẫn nại lặp lại dòng chữ rất ê chề này, đã tỏ rõ là ông có
đức kiên trì chịu đựng trước họa xâm lăng. Kẻ lớn không mắng xéo được thằng nhỏ
Tiểu Dũng ấy lấy một lời, nói xuôi xị như nước đổ lá môn, nhược bằng chẳng nói
câu nào còn hơn!
Bộ
ba Tổng bí thư đảng CSVN Nguyễn Phú Trọng (trái), Chủ tịch nước Trương Tấn
Sang (phải) mặt mũi đăm chiêu trong khi Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng (đứng sau)
mặt mũi tươi cười trước lúc khai mạc khóa họp Quốc Hội ngày 22 tháng 10, 2012
|
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng
Trong tình thế nội
bộ bất nhất và bạc nhược như thế, chỉ riêng Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã dũng
cảm bức phá và bước lên phía trước, với những tuyên bố chống xâm lược, đưa ra
nhiều phát biểu phù hợp với yêu cầu củng cố sức mạnh dân chủ của nhân dân, tạo khí
thế cho toàn dân chống xâm lược. Lời tuyên bố của ông có tính thống nhất, và
duy nhất (trong nội bộ), xuyên suốt từ mấy năm nay, với lập trường kiên quyết
bảo vệ lãnh thổ, chống bành trướng xâm lược, chủ trương dân chủ hóa thể chế, và
có đường lối đối ngoại phù hợp xu hướng thời đại, đã được sự đồng tình ngày
càng rộng lớn của nhân dân. Ông là người đầu tiên lên tiếng tại Quốc hội, khẳng
định Hoàng Sa – Trường Sa thuộc chủ quyền Việt Nam, là người đầu tiên đề xuất
Quốc hội làm luật biểu tình, là người đưa ra thông điệp tại Hội nghị Shangri-La
làm rõ lập trường đối ngoại của Việt Nam trong tình hình mới, là thông điệp đầu
năm bộc lộ tư tưởng dân chủ hóa việc nội trị, là tuyên bố tại Philippines về
lập trường chống bành trướng, cùng thế giới bảo vệ Biển Đông, là những phát
biểu minh bạch khẳng khái trước những quan điểm lưng chừng trong nội bộ lãnh
đạo mang màu sắc ôn hòa giả hiệu đầy nguy hiểm trước các sách lược tấn công của
Bắc Kinh. Ông đang trở thành chỗ dựa của nhân dân, và là một điểm tin cậy trong
liên minh các nước bảo vệ Biển Đông.
Nhưng bản thân ông
còn mang một vệt mờ, và dường như đã phai, trong nhân dân về những sai lầm kinh
tế của những năm qua, dù còn để lại nhiều hậu quả nặng nề. Tất nhiên nó sẽ ám
ảnh ông cho đến ngày mai, nhưng ai cũng biết, ông phải điều hành một chính phủ
dưới sự chi phối tòan diện của bộ máy Đảng, từ trung ương đến địa phương.
Và cũng dường như
có một số người rất quan tâm đến khuyết điểm này để khoét sâu và đả kích, tất
nhiên là có nhiều lý do, vì lý do cái ghế ngồi chẳng hạng, song lý do lớn nhất
là nương theo chiều tác động của Bắc Kinh muốn triệt hạ ông Dũng – vì ông ấy
chống đại cục của họ rõ ràng nhất. Giờ đây, từ “hữu nghị” bộc lộ chiều sâu xấu
xa nhuộm đầy máu của nó. “Hữu nghị” của Bắc Kinh là vì mục tiêu Việt Nam. “Hữu
nghị” của Việt Nam (một số ai đó) là vì mục tiêu “cái ghế”, tức là muốn kiếm
cái ghế dưới bóng râm “hữu nghị”. Nhưng cần cái ghế để mà chống Bắc Kinh, thì
cái ghế đó không thể đến từ “hữu nghị viển vông”, mà phải đến từ nhân dân với
tinh thần quyết chống trả đối phương. Với ý nghĩa này, toàn dân sẽ thành một
sức mạnh ủng hộ người dám bước lên phía trước theo hướng này. Nhiều người cho
rằng nên cảm ơn cái giàn khoan Hải Dương 891. Nhờ nó mà soi rõ mặt nhau. Nhờ nó
mà từ đây – không phải thêm một lần nào nữa, cho dù với người mê man nhất –
cũng không còn ảo tưởng về cái “hữu nghị” khốn cùng của hơn nửa thế kỷ qua,
dưới các cụm từ “Xã hội chủ nghĩa anh em”, “cùng là Đảng Cộng sản”, “môi hở
răng lạnh” của một tình trạng hàm ếch nặng nề.
Ông Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nên theo gương Thái hậu Dương
Vân Nga: Trao ghế Tổng Bí Thư cho người khác.
Với bản chất hiền
lành và ưa mơ mộng xa vời về chủ nghĩa xã hội, có lẽ ông là người ít tham vọng,
lại trong sáng và giản dị, như ông từng “cưỡi xe đạp” đi thăm bạn, như ông đã
từng tin theo một cách hoang tưởng, vào tình hữu nghị tốt đẹp chân phương Việt
- Trung, Nay bầu trời đã hoàn toàn khác. Chúng ranh mãnh một cách phũ phàng với
tấm lòng chân thực của ông. Đại-cục-xã-hội-chủ-nghĩa-anh-em đã tan tành, vỡ vụn
thành những đống ba dớ không còn dùng mót được việc gì. Phải chủ động xé bỏ cái
văn kiện “Hội nghị Thành Đô” thôi. Còn cái “Thông cáo chung” mà ông ký kết thì
chúng đã giày nát dưới chân rồi. Thế thì ông làm Tổng Bí thư với cái nghĩa gì
đây? Với ai đây? Xin nói rõ: không có nhân dân! Vì không một ai muốn đi theo
ông trên con đường viễn mơ sự hoàn thiện ở cuối thế kỷ. Không đa đoan nên không
ứng phó nổi với tình thế, từ nay đến hết nhiệm kỳ Tổng Bí thư của ông, là thời
gian chết của dân tộc. Cả đất nước căng thẳng hằng ngày hằng giờ, và toàn diện.
Bắc Kinh đang tiến công ta trên mọi mặt trận: quân sự, kinh tế, ngoại giao,
tình báo, tư tưởng, văn hóa, thực phẩm, từ trong đất liền, tới ngoài biển đảo,
với quy mô khu vực và thế giới…
Với vai trò cao
nhất đang giữ, ông tỏ rõ là kẻ vô tích sự!
Còn hơn thế nữa,
ông là đại biểu của một thế lực đang bế tắc về mọi phương diện, từ lý thuyết
đến hành động, từ động tác đến lời nói, có tác dụng là vật cản của dân tộc đang
quyết sống chết, thoát vòng vây của Bắc Kinh.
Điều dũng cảm nhất
và cao cả nhất ông có thể làm, là trao quyền Tổng Bí thư cho người khác. Trước
mắt, không ai khác hơn là ông Nguyễn Tấn Dũng, làm Tổng chỉ huy lâm thời cho
giai đoạn chuyển mình của đất nước để thoát khỏi quỹ đạo của Đại Hán Bắc Kinh.
Lời tuyên bố của
ông công khai trên truyền thông với ý nghĩa là, vì cuộc chiến đấu giành độc lập
cho đất nước và bảo vệ hòa bình cho Biển Đông, ông sẵn sàng hy sinh vai trò và
chức vụ đang nắm giữ, để cho cuộc đấu tranh được mạnh mẽ và hiệu quả hơn, và lá
phiếu của ông sẽ tạo được đa số trong Bộ Chính trị. Cuộc chuyển giao quyền lực
được thực hiện êm ả là phù hợp tình hình hiện nay.
Làm được điều này
có ba điều lợi lớn sau đây:
1) Về bản thân. Toàn dân sẽ hoan nghênh ông, vì
đất nước chấm dứt được tình trạng trì trệ, trì kéo, lết bết của cỗ xe tứ mã
không biết chạy về đâu. Ông tự thắng mình bằng cái tâm cao cả (Thắng nhân giả
hữu lực, tự thắng giả cường). Hành động này của ông là lời hiệu triệu vô cùng
giá trị với toàn dân. Ông ngang bậc thánh nhân là có thể.
2) Về Đảng. Do ông mở đầu cho một quyết tâm chống giặc cướp,
cũng là mở đầu cho cuộc chấn hưng đạo đức bằng chính sự làm gương của bản thân
mình, nó sẽ đem lại tác động rộng lớn trong bộ máy cầm quyền của Đảng ông. Từ
đó, văn hóa từ chức sẽ phát triển. Sự tự trọng và tôn trọng nhân cách sẽ từng
bước hình thành một thứ văn hóa đích thực. Nhân dân Nhật, Hàn làm được, nhân
dân Việt Nam dần dần cũng làm được. Bộ máy Đảng các ông sẽ từ từ đẩy lùi cái
văn hóa thô lậu của mua bán chức quyền trong Đảng đang phát triển hà rầm bấy
lâu nay, nó vượt xa cái hệ giá trị của sáng kiến kỳ bí màu mè, là “lấy phiếu
tín nhiệm” theo cách may rủi có vẻ cờ bạc. Nói thật về một thực tế, hiện nay
nhân dân không hề “kính trọng” các quan chức chút nào, mà chỉ có sợ về bạo lực
và các thủ đoạn khác của kẻ cầm quyền. Nhưng hà tất phải đòi hỏi kính trọng?
Bình đẳng và tôn trọng nhân cách, tôn trọng luật pháp là đủ. Đảng từng bước
chuyển hóa theo nền văn hóa nhân bản, từ bỏ con đường nguy hiểm do Đảng Cộng
sản Trung Quốc cài đặt và tẩm hóa chất, để hướng về một xã hội bình đẳng, dân
chủ và một nhà nước pháp quyền – nó vốn là những thành tựu trên con đường trải
nghiệm của nhân loại.
3) Về Tổ quốc. Nếu trước đây, Tổng Bí thư
Nguyễn Phú Trọng là người có khuôn mặt mà Bắc Kinh “yên tâm”, thì nay đương nhiên
là họ sẽ vô cùng thất vọng. Không nhắc đến lịch sử xa xưa, chỉ nói đến những
thế hệ Cộng sản. Đã có một Tổng Bí thư Lê Duẩn từng đốp chát thẳng với Mao
Trạch Đông, hay vỗ mặt Đặng Tiểu Bình qua trận chiến 1979, thì cũng có một Tổng
Bí thư Nguyễn Văn Linh tính sai nước cờ mà thảm bại ở Thành Đô (thua về trí),
một Tổng Bí thư Nông Đức Manh lỡ cúi gập người gần 90 độ trước cái uy phong của
Hồ Cẩm Đào (thua về khí), mà thực hành chăm chỉ 16 chữ vàng cho đến lúc hưu,
làm cho nhân dân vừa xấu hổ vừa tức giận, thì tới Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng
đã bị Hồ Cẩm Đào gài bằng cái bẫy “thông cáo chung” quá tử tế, để sau đó cho
đàn em Tập ra đòn. Đau là cái đau chung của non nước, nhục là nỗi nhục chung
của dân tộc, chẳng phải của riêng ai. Cái hưng vong của tổ quốc thì lịch sử
phải ghi thẳng thắn. Chúng ta trả đòn thù bằng cách sửa mình để vươn lên chân
chính. Lịch sử Việt Nam không hẹp hòi với tấm tình của Mỵ Châu, nhưng ghi lại
một điển hình nông nổi như một bài học. Lại có một tấm gương Dương Vân Nga lộng
lẫy ít nơi nào có. Ta cũng có một Tổng Bí thư Trường Chinh biết sửa sai cuối
đời, đặt nền tảng cho một sự chuyển hướng căn cơ.
Thế giới sẽ đón
nhận tin vui khi nghe ông Tổng Bí thư trao Vương miện. Tập Cận Bình thì rất lo
âu vì thế cờ đã xoay hướng. Giá trị hành vi này của ông như sự “bấm nút” của
thời đại vũ khí nguyên tử.
Gỡ nhục cho mình,
tháo ách cho nước, làm đối phương kinh ngạc, giá như Tổng Bí thư Nguyễn Phú
Trọng cùng nhân dân xoay trục, mà khẳng khái đứng dậy trao ghế cho người khác,
như Thái hậu Dương Vân Nga đã làm! Đất nước sẽ phát triển, Biển Đông sẽ bình
yên, thế đứng của Việt Nam sẽ bền vững. Và ông sẽ được toàn dân xem xét, có thể
được tôn vinh về nhân cách.
Bám ghế thêm hai
năm, rồi thui thủi ra về với một linh hồn rách nát, phỏng thân thế sự nghiệp có
ra gì! Cái vinh quang chân chính sao không nắm lấy?
“Ông đứng làm chi
đấy, hỡi ông?
Trơ trơ như đá,
“lẳng” như đồng.
Đêm ngày gìn giữ
cho ai đó?
Non nước đầy vơi có
biết không?”
(Nguyễn Khuyến)
Đây chỉ là bài thơ
vịnh một ông “phỗng” bằng đá./.
12-6-2014
H. Đ. N.
Nguồn: BVN
No comments:
Post a Comment