VẤN
ĐỀ ĐẦU ĐỘC BẰNG PHÓNG XẠ VÀ CÁI CHẾT CỦA ÔNG NGUYỄN BÁ THANH
(1953-2015)
TK Tran
Theo những mô tả được
phổ biến trên các phương tiện truyền thông, thì bệnh mà ông Nguyễn Bá Thanh mắc
phải là bệnh rối loạn sinh tủy – pancytopenia – khi hồng huyết cầu, tiểu
huyết cầu và bạch cầu bị suy giảm trầm trọng. Bệnh này là một bệnh hiếm hoi,
không phải là bác sĩ nào cũng gặp trong suốt cuộc đời hành nghề. Theo những
thống kê thì tỷ lệ mắc bệnh chỉ là 1-2 phần triệu, nghĩa là trong 1 triệu dân
cư chỉ có 1-2 người mắc bệnh. Trong những tháng qua, bệnh của ông được dư luận
quan tâm đặc biệt, không hẳn là vì chứng bệnh hiểm nghèo hiếm hoi mà ông mắc
phải, mà vì nguyên do gây ra bệnh của ông. Đã có giả thuyết là ông bị
đầu độc bằng phóng xạ.
Ngày 13.2.2015 ông đã
từ trần vì bệnh rối loạn sinh tủy này cùng với suy gan nặng và nhiễm
nấm.
Quan
điểm của nhà nước về nguyên nhân gây bệnh, vai trò của phóng xạ
Trong cuộc gặp gỡ với
báo chí ngày 7 tháng 1 vừa qua, ban Bảo vệ chăm sóc sức khỏe trung ương đã
thông tin cho báo chí về tình hình sức khỏe của ông Thanh. Ông Quốc Khánh, phó
giám đốc viện Huyết học nói rằng, hội chứng rối loạn sinh tủy này trên thế giới
chưa ai tìm được nguyên nhân. Nếu tìm được thì đã phòng, chữa được.
Phát biểu của ông
Khánh là đúng, song không hoàn toàn chính xác.
Theo những thống kê quốc tế, thì
có đến 70-80% trường hợp bệnh không tìm ra nguyên nhân. Song trong số 20-30%
còn lại, người ta biết rằng chứng rối loạn sinh tủy là phản ứng phụ hiếm hoi
của việc sử dụng một số thuốc thông dụng, ví dụ thuốc chống tê thấp như
Indomethacin, Phenylbutazone, Diclofenac, thuốc cường giáp như Carbimazol,
Thiouracil, tiểu đường như Tolbutamid, thuốc sốt rét Chloroquin, kháng sinh như
Sulfonamide, Cotrimoxazol, Chloramphenicol… Bệnh viêm gan của ông Thanh cũng
nằm trong danh sách gây bệnh rối loạn sinh tủy. Có nguyên nhân do di truyền
(late onset hereditary bone marrow failure syndromes).
Được lưu tâm hơn cả là
nguyên nhân do nhiễm phóng xạ.
Trong buổi gặp báo chí
nói trên, khi phóng viên báo Tuổi Trẻ đặt câu hỏi: Căn cứ nào để Ban Bảo vệ chăm sóc sức
khỏe trung ương khẳng định ông Bá Thanh không bị đầu độc, thì
bị ông Nguyễn Thế Kỷ, phó Ban tuyên giáo trung ương vặn ngược lại với cung cách
kẻ cả: Vậy căn cứ nào nói
bị đầu độc? Ông Phạm Gia Khải, phó trưởng Ban Bảo vệ chăm sóc
sức khỏe trung ương trả lời câu hỏi này nghiêm chỉnh hơn: Chuyện có đầu độc hay không: làm khoa
học phải có chứng cứ… chúng tôi chỉ chấp nhận những giả thuyết có bằng chứng cụ
thể… Đến nay chưa có triệu chứng nhiễm độc ở bất cứ nơi nào trong cơ thể.
Đầu
độc bằng phóng xạ: một phương pháp tối ưu của tội ác
Nếu cho rằng ông Thanh
bị đầu độc bằng phóng xạ thì trường hợp của ông không phải là đầu tiên và duy
nhất trên thế giới.
Đầu tháng 11 năm 2006
Alexander Liwinenko, một điệp viên nhị trùng làm việc cho phản gián Nga KGB và
dồng thời cho phản gián Anh, xin tỵ nạn chính trị ở Anh, bị giết chết ở London
bởi chất phóng xạ Polonium 210, chỉ 3 tuần sau khi ông uống 1 ly trà có hòa tan
chất phóng xạ này. Người ta cho rằng Putin đã ra lệnh giết Liwinenko vì những
cáo buộc của ông ta về những tội ác của chế độ Putin.
Ngày 28 tháng 10
năm 2004 ông Jassir Arafat, thủ lãnh của Palestine đột nhiên lâm bệnh
nặng, sau 1 tuần ông không ăn uống được vì viêm đường ruột. Ông được đưa
ngay sang Paris, điều trị ở bệnh viện quân đội Percy. Vài ngày sau đó ông bị
hôn mê, thận và gan không còn hoạt động, cuối cùng là chảy máu óc. Ngày 11
tháng 11 năm 2004 ông chết, chỉ quãng 2-3 tuần sau khi có những triệu
chứng bệnh tật đầu tiên. Các bác sĩ điều trị không kết luận được về nguyên nhân
cái chết của ông. Việc mổ tử thi để giảo nghiệm không được gia đình ông cho
phép.
Đầu năm 2012 người ta
tìm thấy dấu vết của Polonium 210 trong những vật dụng cá nhân của ông còn giữ
lại. Từ đó dẫn đến nghi ngờ là ông đã chết vì bị đầu độc bằng phóng xạ . Tháng
10 năm 2013 mộ của ông được cải táng và di cốt của ông được 3 nhóm chuyên gia
Pháp, Thụy Sĩ và Nga khảo nghiệm. Kết quả phân chất (8 năm sau khi ông
chết) không đồng nhất: Trong khi Thụy Sĩ cho rằng ông Arafat có khả năng
(moderately support) nhiễm độc Polonium 210, thì Pháp và Nga không tìm thấy
bằng chứng cụ thể. Cuối cùng, tới nay vai trò của Polonium trong cái chết của
Arafat vẫn còn là một hoài nghi.
Mặt khác, điều này
cũng cho thấy là việc điều tra chứng minh tác động của chất độc phóng xạ không
hề đơn giản. Trong trường hợp cái chết của Litwinenko các bác sĩ và những điều
tra viên trong những ngày đầu tiên đã phải xếp vào loại chết không rõ
nguyên nhân. Chỉ sau một thời gian dài mò mẫm người ta mới xác định được nguyên
nhân ngộ độc phóng xạ. Điều này khẳng định thêm một lần nữa tính „ưu việt“ của
chất độc Polonium 210 là giết người không để dấu vết hay rất khó khăn để tìm ra
dấu vết.
Polonium
210
Chất độc phóng xạ
polonium 210 phát ra tia alpha, không màu sắc, không mùi vị, chỉ cần 1 lượng
rất nhỏ (quãng 1-2 µg, nghĩa là 1-2 phần triệu gram) tương ứng với 1 năng lượng
quãng 10 Gray là đủ để giết một mạng người. Polonium 210 không cần chuyên chở
trong những hộp chì dầy cộm nặng nề lộ liễu dễ gây nghi ngờ như những chất
phóng xạ tia gamma bình thường. Cách sử dụng lại rất dễ dàng.
Khi sử dụng không
gây nguy hiểm gì cho kẻ chủ mưu, bởi vì tia phóng xạ alpha chỉ có hiệu
năng trong bán kính 5 cm ở ngoài không khí, có thể được chặn đứng bằng 1 tờ
giấy. Hiệu năng phá hoại của nó chỉ được phát huy khi chất độc này lọt vào
trong cơ thể qua đường tiêu hóa, hô hấp hay trực tiếp vào mạch máu. Ở trong cơ
thể, tia alpha chỉ có hiệu năng trong bán kính 0,04-0,1 mm, song đủ để phá nát
các tế bào trên đường đi của nó.
Khi polonium 210 còn nằm trong dạ dày, nó làm
các tế bào niêm mạc (mucosa) bị phá hoại, nạn nhân cảm thấy khó chịu, buồn nôn
sau chừng 6-7 tiếng đồng hồ. Khi chất phóng xạ theo đường máu tỏa ra khắp các
mô trong cơ thể thì phá hủy các tế bào, nhanh nhất là những tế bào có khả năng
phân chia nhanh ở trong các tủy xương. Từ đó gây ra chứng rối loạn sinh tủy là
một biến chứng nguy hiểm sớm đầu tiên. Tủy xương không thể sinh sản được đầy đủ
các tế bào máu. Khi làm khám nghiệm sinh học sẽ thấy chỉ số bạch cầu xuống thấp
(leucopenie) rất sớm, trong vòng 4-5 ngày, tiểu cầu xuống thấp (thrombopenie)
sau chừng 9 ngày.
Một khi đã lọt vào trong cơ thể, thì không còn phương pháp
nào để trục xuất chất độc này ra khỏi cơ thể, ngoại trừ một phần theo đường bài
tiết tự nhiên (phân, nước tiểu) được đưa ra ngoài. Khi đã có rối loạn sinh tủy,
tối thiểu lượng phóng xạ đã phải là 3-5 Gray, thì tiên lượng (prognosis)
là LD50 (lethal dosis 50), có nghĩa là 50% nạn nhân sẽ phải chết. Nếu bị
đầu độc với lượng cao hơn, quãng 10 Gray sẽ có ngay rối loạn đường tiêu hóa và
hệ thần kinh, thì tiên lượng là LD100, nạn nhân không có hy vọng sống sót.
Giả
thuyết về việc ông Bá Thanh chết vì bị đầu độc bằng phóng xạ
Trang mạng Chân Dung
Quyền Lực (CDQL)
đã quả quyết rằng một phó thủ tướng đương nhiệm đã chủ mưu việc đầu độc ông
Nguyễn Bá Thanh bằng phóng xạ. Việc đầu độc được cho là vào thời điểm cuối năm
2013, khi ông Thanh đi công tác ở Trung Quốc, rồi được „bạn“ chiêu đãi, đưa đi
đây đi đó ăn uống và mua sắm. Ở một thời điểm thích hợp ông đã bị đánh thuốc
độc phóng xạ. Từ khi đó sức khỏe ông xuống dốc.
Trong khi công tác ở Thụy Điển,
ông đã vài lần ngất xỉu.Vào đầu tháng 5-2014 đã được điều trị tại bệnh viện 108
với chuẩn đoán „rối loạn sinh tủy“. Tháng 6 và tháng 7–2014 điều trị tại
Singapore và từ tháng 8–1014 tới tháng 1-2015 điều trị tại Mỹ. Ngày 9 tháng 1
năm 2015 ông được đưa trở lại Việt Nam. Ông mất hơn 1 tháng sau đó, vào ngày
13–2–2015 tại Đà Nẵng.
Trang mạng CDQL quyết đoán là
các bác sĩ Mỹ đã định bệnh „Ngộ độc phóng xạ ARS“ và đã thực hiện phẫu
thuật ghép tủy. Nay
ông Thanh đã mất, vấn đề trách nhiệm về cái chết này lại càng trở nên sôi
bỏng. Thông tin của
CDQL có khả tín hay không là vấn đề được mổ xẻ ở
đây.
Chỉ có 2 tình huống có
thể đã xảy ra:
–
Tình huống thứ nhất: Có âm mưu thực sự muốn giết ông Thanh bằng
phóng xạ.
Một chi tiết biện minh
cho giả thuyết này là yếu tố Trung Quốc. Polonium 210 chỉ sản xuất được ở một
số lò nguyên tử trên thế giới, trong đó có lò ở Trung Quốc. Sản xuất ở Nga
chiếm tới 95% tổng số sản lượng thế giới. Việc cho rằng người chủ mưu phải nhờ
tới nước ngoài để có được Polonium như vậy cũng hợp lý. Song tất cả diễn
biến của bệnh ông Thanh lại không „điển hình“, như tiên liệu của một cuộc đầu
độc kinh điển bằng phóng xạ: Vài tiếng đồng hồ sau khi ăn uống phải chất
phóng xạ ở Trung Quốc là ông Thanh đã phải khó chịu nôn mửa. Sau 2-3 tuần là lẽ
ra tủy xương đã bị tiêu hủy dẫn tới chứng suy/rối loạn sinh tủy. Chậm lắm là
1-2 tháng sau là nạn nhân chết.
Ở trường hợp ngộ độc phóng xạ điển hình
như trường hợp điệp viên Litwinenko cái chết tới chỉ trong vòng 3 tuần. Ở
trường hơp ông Bá Thanh thì không như vậy. Chứng rối loạn sinh tủy phát sinh
5-6 tháng sau khi ông từ Trung Quốc trở về, và tới nay, hơn 1 năm sau ngày bị
„đầu độc“ ông mới mất.
Nếu đặt tiền đề rằng
chứng „rối loạn sinh tủy“ của ông Thanh phải là do phóng xạ gây ra bởi vì ai đó
đã có chứng cớ gì mà hiện nay chưa công bố, thì năng lượng nguyên tử đã
dùng chỉ tới mức 3-5 Gray vì „chỉ có“ tủy xương bị tàn phá: Để cố ý giết
người thì năng lượng này tương đối thấp. Năng lượng thấp này thường là do tai
nạn nguyên tử gây ra.
Một khả năng khác là cũng có thể là nguyên nhân cố ý giết
người, song lại dùng liều lượng thấp hay dùng chất phóng xạ khác, ít nguy hiểm
hơn (như Yttrium 90, cũng phát tán tia alpha, vốn được dùng trong Y khoa
hạt nhân để chữa phong thấp, dễ mua và rẻ hơn là Polonium 210). Dù sao chăng
nữa, với một năng lượng nguyên tử 3-5 Gray thì tiên lượng bệnh của ông cũng là
nghiêm trọng: LD50 (lethal dosis 50). Cái chết hay lẽ sống tương đương ngang
ngửa 50% với nhau. Nay cái chết đã thắng thế trên thân xác ông.
–
Tình huống thứ hai: Bệnh của ông Thanh không liên quan gì tới phóng xạ.
Trong thời gian qua
trang mạng CDQL đã
tung ra công luận một số thông tin vô cùng phong phú với những chứng cớ, hình
ảnh, giấy tờ khó lòng chối bỏ về tài sản bất chính của một số quan chức cao cấp
nhất nước. Những người bị nêu tên đích danh không thốt nổi nửa lời để chống cự
lại những cáo buộc trên. Song, trong trường hợp của ông Thanh thì lại khác. CDQL chỉ khẳng
định,mà không nêu lên bất cứ bằng chứng, tư liệu nào chứng minh cho cáo buộc là
ông Thanh bị đánh thuốc độc phóng xạ.
Nếu hình ảnh chụp ông Thanh gầy gò,
rụng hết tóc được chụp vài tuần sau khi ông từ Trung Quốc trở về vào cuối
năm 2013 thì hình này minh chứng được cho tác động phóng xạ làm ông rụng hết
tóc,làm thân xác ông tiều tụy. Song hình ảnh này lại được chụp ở Mỹ, sau 2-3
lần hóa trị, thì đó chỉ là phản ứng rất bình thường của hóa trị.
Người
dân chờ đợi CDQL tung
ra hình ảnh chụp ông Thanh trước khi ông được chữa trị, trưng ra bản copie các
kết quả thử nghiệm và kết luận sau cùng của các bác sĩ Mỹ, ví dụ như nồng độ
Polonium 210 hay chất phóng xạ khác trong nước tiểu, tủy xương của ông Thanh,
ví dụ như báo cáo cytology về những biến dạng hay hư hoại của các tế bào máu
trong tủy xương hay kết quả khảo nghiệm chromosome ở các bạch cầu trong máu của
ông.
Kết quả thử nghiệm máu
vào tháng 5-2014 mà ông Phạm gia Khải cho báo chí biết (hồng cầu giảm, tiểu cầu
giảm, bạch cầu không rõ ràng) không đưa ra được kết luận cụ thể. Kết quả này
cũng không điển hình với biến đổi do phóng xạ gây ra, bởi vì thông thường thì
bạch cầu rất nhạy cảm với phóng xạ, sẽ bị phá hủy nhanh chóng và rõ ràng nhất.
Lời
kết
Cho tới ngày ông Thanh
mất vẫn chưa có thêm thông tin hay bằng cớ gì mới cho biết là ông Thanh có hay
không bị đầu độc bằng phóng xạ. Tất cả cáo buộc từ phía CDQL hay phủ nhận
từ phía nhà nước cho tới nay chỉ là những khẳng định chung chung, không bằng
chứng.
Ông Nguyễn Bá Thanh đã
được khám bệnh, trị bệnh nhiều tháng trời ở những bệnh viện hàng đầu ở 3 quốc
gia: Việt Nam, Singapore và Mỹ. Tất nhiên là những dữ kiện về bệnh tình của ông
không thể thiếu. Kết luận cụ thể về nguyên nhân bệnh của ông từ những bác sĩ
chuyên môn hàng đầu thế giới chắc chắn đã có, song tới nay vẫn được giữ kín như
một bí mật quốc gia.
Ngày 7 tháng 1 vừa qua
ông Nguyễn Quốc Triệu, trưởng ban bảo vệ săn sóc sức khỏe trung ương, cho rằng
việc không cung cấp thông tin bệnh tình của ông Nguyễn Bá Thanh là do: Trong luật khám chữa bệnh, bệnh nhân có
quyền bí mật về bệnh, việc cung cấp thông tin bệnh tật của cán bộ cao cấp phải
xin ý kiến của cấp trên. Chính sách giấu kín thông tin trong
lãnh vực sức khỏe của từng cá nhân là phổ thông và ở khắp nơi. Ở phương Tây
cũng thế. Song có một điểm khác biệt quan trọng là ở nơi có chế độ dân
chủ, người bệnh nhân có quyền cho phép tiết lộ thông tin sức khỏe của mình cho
một người thứ ba mà không cần phải xin ý kiến của cấp trên nào.
Ở trường hợp có
người tố cáo là có kẻ gian đầu độc người khác, như chuyện Bá Thanh, thì không
những là có vấn đề sức khỏe của người bệnh mà còn có vấn đề hình sự
đối với kẻ gian, còn vấn đề sử dụng pháp luật để ngăn đe trừng trị.
Như vậy không thể có chuyện mượn cớ bí mật sức khỏe để bỏ qua việc điều tra
được.
Trong trường hợp không có yếu tố
phóng xạ, thì công luận và cá nhân Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc phải được
thông tin giải oan, và là cơ hội để ông Phó Thủ tướng truy tố kẻ vu khống
và đòi bồi thường thiệt hại.
Trong trường hợp có yếu tố phóng xạ,
thì đây là là một tội ác không thể khoan nhượng vì đã có người chết. Gia đình
ông Thanh phải khởi tố. Nhà nước phải vào cuộc, điều tra kỹ lưỡng để tìm
ra chính xác thủ phạm của vụ đầu độc này.
Ngành công an Việt
Nam, với số lượng nhân sự và phương tiện khổng lồ, vốn nổi tiếng về
những vụ giết người, đánh người trong đồn công an hay đàn áp người
dân bất đồng chính kiến, không thể bỏ qua cơ hội để phát huy đúng mức
chức năng của mình khi làm sáng tỏ vụ án này.
T.K.T.
No comments:
Post a Comment