From: SUTTON VO <
Date: Mon, 30 Mar 2015 15:24:58 +0000
Subject: Chế độ CSVN phải xụp đổ! Fw: [Thaoluan9] Fwd: Fw: SỰ SỤP ĐỔ CỦA CHỦ NGHĨA CỘNG SẢN TẠI VIỆT NAM
Date: Mon, 30 Mar 2015 15:24:58 +0000
Subject: Chế độ CSVN phải xụp đổ! Fw: [Thaoluan9] Fwd: Fw: SỰ SỤP ĐỔ CỦA CHỦ NGHĨA CỘNG SẢN TẠI VIỆT NAM
Kính thưa quý đồng hương,
Thiển nghĩ không còn ai chưa biết về sự
xụp đổ của chủ nghĩa Cộng Sản sau khi cả khối các nước Cộng Sản trên thế
giới do Liên Xô lãnh đạo xụp đổ vào năm 1991!
Thế nhưng, vẫn còn 4 nước tàn dư do
các đảng Cộng Sản cai trị còn sót lại (không kể các nước nhỏ, chư hầu của
chúng). Đó là Trung Cộng, Việt Cộng, Cuba và Bắc Hàn.
Do đó, bàn chuyện "Sự Sụp đổ của
Chủ nghĩa Cộng Sản tại Việt Nam" e rằng chúng ta đang làm một chuyện dư
thừa chăng?
Vấn đề ô đây là làm sao làm
cho chế độ của đảng cướp Cộng Sản Việt Nam sớm xụp đổ để cho toàn
dân Việt được hưởng tự do no ấm.
Đó là vân đề thiết
yếu cần bàn, cần giải quyết!
Xin quý vị thức giả, những bậc cao minh hãy dùng
tài ba của mình để giúp giải quyết vấn nạn đảng cướp CSVN thì chúng tôi vô
cùng biết ơn.
Trân trọng kính chào quý đồng hương.
Võ Văn Sĩ, người lính già QLVNCH
On Sunday, March 29,
2015 6:28 PM, "Can Bui [thaoluan9]" <>
wrote:
Kinh chuyen qui vi doc: "SỰ SỤP ĐỔ CỦA CHỦ NGHĨA CỘNG SẢN TẠI
VIỆT NAM"
On Saturday, March 28,
2015 3:24 PM, Sam Nguyen <> wrote:
SỰ SỤP ĐỔ CỦA CHỦ NGHĨA CỘNG SẢN TẠI VIỆT NAM
Trước
đây, trên thế giới, có 15 quốc gia chính thức theo chủ nghĩa cộng sản, và 11
quốc gia tự nhận là cộng sản hoặc theo khuynh hướng cộng sản. Mười lăm
quốc gia ở trên là: Albania, Bulgaria, Czechoslovakia, Đông Đức, Hungary, Mông
Cổ, Ba Lan, Romania, Liên Xô, Yugoslavia, Trung Quốc, Cuba, Bắc Triều Tiên, Lào
và Việt Nam. Mười một quốc gia ở dưới là: Angola, Benin, Congo, Ethiopia,
Mozambique, Zimbabwe, Grenada, Nicaragua, Campuchia, Afghanistan và Nam Yemen.
Tổng
cộng, từ hai bảng danh sách ấy, có cả thảy 26 nước cộng sản hoặc có khuynh
hướng theo cộng sản. Từ đầu thập niên 1990, tất cả các chế độ cộng sản ấy đều
lần lượt sụp đổ. Hiện nay, trên cả thế giới, chỉ còn năm nước mang nhãn hiệu
cộng sản: Trung Quốc, Cuba, Bắc Triều Tiên, Lào và Việt Nam.
Chưa có dấu hiệu nào cho thấy chủ nghĩa cộng sản ở năm quốc gia này sẽ sụp đổ sớm. Trong năm nước, có ba nước có quan hệ chặt chẽ với nhau: Trung Quốc, Việt Nam và Lào. Có lẽ Lào chỉ thay đổi được thể chế chính trị nếu, trước đó, Việt Nam cũng thay đổi; và Việt Nam có lẽ chỉ thay đổi, nếu trước đó Trung Quốc cũng thay đổi. Như vậy, quốc gia có khả năng châm ngòi cho bất cứ sự thay đổi lớn lao nào là Trung Quốc.
Tuy
nhiên, ngay cả khi Trung Quốc và Việt Nam chưa thay đổi và chưa từ bỏ chủ nghĩa
cộng sản, giới nghiên cứu cũng phát giác những dấu hiệu suy tàn âm thầm của chủ
nghĩa cộng sản bên trong hai quốc gia này; và đặc biệt là Việt Nam.
Ở
đây, ta chỉ tập trung vào Việt Nam.
Nhìn
bề ngoài, chế độ cộng sản tại Việt Nam vẫn mạnh. Hai lực lượng nòng cốt
nhất vẫn bảo vệ nó là: công an và quân đội.
Dân
chúng khắp nơi bất mãn nhưng bất mãn nhất là nông dân, những người bị cướp đất
hoặc quá nghèo khổ. Có điều nông dân chưa bao giờ đóng được vai trò gì trong
các cuộc cách mạng dân chủ cả. Họ có thể thành công trong một số cuộc nổi dậy
nhưng chỉ với một điều kiện: được lãnh đạo.
Trong
tình hình Việt Nam hiện nay, chưa có một tổ chức đối kháng nào ra đời, hy vọng
nông dân làm được gì to lớn chỉ là một con số không. Ở thành thị, một số thanh
niên và trí thức bắt đầu lên tiếng phê phán chính phủ nhưng, một, số này chưa
đông; và hai là còn rất phân tán. Nói chung, trước mắt, đảng Cộng sản vẫn chưa
gặp một sự nguy hiểm nào thật lớn.
Thế
nhưng, nhìn sâu vào bên trong, chúng ta sẽ thấy quá trình mục rữa của chủ nghĩa
cộng sản đã bắt đầu và càng ngày càng lớn. Như một căn bệnh ung thư bên trong
một dáng người ngỡ chừng còn khỏe mạnh.
Sự
mục rữa quan trọng nhất là về ý thức hệ.
Khác
với tất cả các hình thức độc tài khác, chủ nghĩa cộng sản là một thứ độc tài
có… lý thuyết, gắn liền với một ý thức hệ được xây dựng một cách có hệ thống và
đầy vẻ khoa học.
Thật
ra, chủ nghĩa phát xít cũng có lý thuyết, chủ yếu dựa trên sức mạnh và tinh
thần quốc gia, nhưng không phát triển thành một hệ thống chặt chẽ và có ảnh
hưởng sâu rộng như chủ nghĩa cộng sản. Còn các chế độ độc tài ở Trung Đông chủ
yếu gắn liền với tôn giáo cộng với truyền thống quân chủ kéo dài (thường được
gọi là độc tài quốc vương, sultanistic authoritarianism) hơn là lý thuyết.
Nhiều
nhà nghiên cứu nhấn mạnh: các chế độ cộng sản không thể tồn tại nếu không có
nền tảng ý thức hệ đằng sau.
Ý
thức hệ cộng sản một thời được xem là rất quyến rũ vì nó bao gồm cả hai kích
thước: quốc gia và quốc tế. Ở bình diện quốc gia, nó hứa hẹn giải phóng đất
nước khỏi ách đô hộ của chủ nghĩa thực dân; ở bình diện quốc tế, nó hứa hẹn
giải phóng giai cấp vô sản và tạo nên sự bình đẳng và thịnh vượng chung cho
toàn nhân loại. Ở bình diện thứ hai, chủ nghĩa cộng sản, gắn liền với một
ước mơ không tưởng, rất gần với tôn giáo; ở bình diện thứ nhất, đối lập với chủ
nghĩa thực dân, nó rất gần với chủ nghĩa quốc gia. Trên thực tế, hầu hết các
nước cộng sản trước đây đều cổ vũ và khai thác tối đa tinh thần quốc gia trong
cả quá trình giành chính quyền lẫn quá trình duy trí chế độ. Sự kết hợp
giữa chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa quốc gia dễ thấy nhất là ở các nước thuộc
địa và cựu thuộc địa như Việt Nam.
Sau
năm 1991, tức sau khi chủ nghĩa cộng sản tại Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, ý thức
hệ cộng sản cũng bị phá sản theo. Thực trạng nghèo đói, bất công và áp bức dưới
các chế độ cộng sản ấy đều bị vạch trần và phơi bày trước công luận. Sự hứa
hẹn về một thiên đường trong tương lai không còn được ai tin nữa.
Tính
hệ thống trong chủ nghĩa Marx-Lenin cũng bị đổ vỡ. Nền tảng ý thức hệ của các
chế độ cộng sản bị tan rã tạo thành một khoảng trống dưới chân chế độ.
Để
khỏa lấp cái khoảng trống ấy, Trung Quốc sử dụng hai sự thay thế: chủ nghĩa Mao
và Nho giáo (trong chủ trương tạo nên một xã hội hài hòa, dựa trên lòng trung
thành). Việt Nam, vốn luôn luôn bắt chước Trung Quốc, không thể đi theo con
đường ấy. Lý do đơn giản: Đề cao chủ nghĩa Mao là một điều nguy hiểm cả về
phương diện đối nội lẫn đối ngoại; còn với Nho giáo, một là Việt Nam
không am hiểu sâu. Hai là, nó đầy vẻ… Tàu, rất dễ gây phản cảm trong quần
chúng.
Đứng
trước bế tắc, Việt Nam bèn tạo nên cái gọi là tư tưởng Hồ Chí Minh. Nhưng
Hồ Chí Minh lại không phải là một nhà lý thuyết. HCM chỉ là
một người hành động. Ông viết nhiều, nhưng tất cả đều rất thô phác và đơn giản.
Hơn nữa, ở Việt Nam hiện nay, cũng không có một người nào giỏi lý thuyết
để từ những phát biểu sơ sài của Hồ Chí Minh xây dựng thành một hệ thống sâu
sắc đủ để thuyết phục mọi người.
Thành
ra, cái gọi là tư tưởng Hồ Chí Minh hoàn toàn không trám được khoảng trống do
sự sụp đổ của ý thức hệ Marx-Lenin gây ra. So với Trung Quốc, khoảng trống này
ở Việt Nam lớn hơn gấp bội.
Mất
ý thức hệ cộng sản, chính quyền Việt Nam chỉ còn đứng trên một chân: chủ nghĩa
quốc gia. Nhưng cái chân này cũng rất èo uột nếu không muốn nói là đã
lung lay, thậm chí, gãy đổ.
Trên
nguyên tắc, Việt Nam vốn có truyền thống yêu nước rất cao. Bao nhiêu chế độ ra
đời từ giữa thế kỷ 20 đến nay đều muốn khai thác và tận dụng lòng yêu nước ấy.
Tuy nhiên, với chế độ cộng sản hiện nay, việc khai thác vốn tài sản này gặp rất
nhiều khó khăn. Lý do là lòng yêu nước bao giờ cũng gắn liền với sự căm thù.
Không ai có thể thấy rõ được lòng yêu nước trừ phi đối diện với một kẻ
thù nào đó của đất nước.
Hai
kẻ thù chính của Việt Nam, trong lịch sử mấy ngàn năm, là Trung Quốc; và gần
đây nhất, là Mỹ. Nhưng Việt Nam lại không dám nói quá nhiều về hai kẻ thù này.
Với Mỹ, họ cần cả về phương diện kinh tế lẫn phương diện chiến lược. Đề cao
truyền thống chống Mỹ, do đó, là điều rất nguy hiểm. Đề cao truyền thống chống
Trung Quốc lại càng nguy hiểm hơn: Trung Quốc có thể đánh hoặc ít nhất đe dọa
VIệt Nam bất cứ lúc nào.
Bởi
vậy, Việt Nam, một mặt, phải hạ giọng khi nói về truyền thống chống Mỹ và phải
né tránh việc nhắc nhở đến truyền thống chống Trung Quốc. Hai hành động
này có lợi về phương diện đối ngoại nhưng lại có tác hại nghiêm trọng về phương
diện đối nội: chính quyền hiện ra, dưới mắt dân chúng, như những kẻ hèn, hèn
nhát và hèn hạ.
Từ
một chế độ được xây dựng trên thành tích chống ngoại xâm, chế độ cộng sản tại
Việt Nam lại bị xem như những kẻ bán nước, hoặc bán nước dần dần bằng cách hết
nhượng bộ điều này sang nhượng bộ điều khác trước sự uy hiếp của Trung Quốc.
Trước
sự sụp đổ của cả hai nền móng, ý thức hệ cộng sản và chủ nghĩa quốc gia, đảng
Cộng sản Việt Nam bèn chuyển sang một nền tảng khác: kinh tế với phương châm ổn
định và phát triển.
Nội
dung chính của phương châm này là: Điều cần nhất đối với Việt Nam hiện nay là
phát triển để theo kịp các quốc gia khác trong khu vực cũng như, một cách gián
tiếp (không được nói công khai), đủ sức để đương đầu với Trung Quốc. Nhưng để
phát triển, cần nhất là phải ổn định về chính trị, nghĩa là sẽ không có thay
đổi về thể chế và cũng không chấp nhận đa đảng.
Phương
châm ấy, thật ra, là một sự bịp bợm: Nó chuyển vấn đề từ chính trị sang kinh tế
với lý luận: nếu vấn đề quan trọng nhất của Việt Nam hiện nay là vấn đề kinh tế
thì mọi biện pháp sửa đổi sẽ chỉ giới hạn trong phạm vi kinh tế. Với lập luận
này, chính quyền có thể trì hoãn mọi yêu cầu cải cách chính trị.
Tuy
nhiên, nó hoàn toàn không thuyết phục, bởi, ai cũng thấy, lãnh vực kinh tế là
mặt mạnh nhất của chủ nghĩa tư bản và cũng là mặt yếu nhất của chủ nghĩa xã hội
hay chủ nghĩa cộng sản. Tất cả các quốc gia dân chủ ở Tây phương đều có hai đặc
điểm nổi bật: về chính trị, rất ổn định và hai, về kinh tế, rất phát triển.
Ở Việt Nam, người ta cố thu hẹp phạm vi so sánh: các cơ quan truyền
thông chính thống chủ yếu tập trung vào các nước Đông Nam Á, đặc biệt Thái Lan
với một thông điệp chính: đa đảng như Thái Lan thì lúc nào cũng bị khủng hoảng.
Nhưng ở đây lại có hai vấn đề: Một, dù liên tục khủng hoảng về chính trị, nền
kinh tế của Thái Lan vẫn tiếp tục phát triển, hơn hẳn Việt Nam. Hai, ngày nay,
do xu hướng toàn cầu hóa, tầm nhìn của dân chúng rộng rãi hơn nhiều; chính
quyền không thể thu hẹp mãi tầm nhìn của họ vào tấm gương của Thái Lan được.
Về
phương diện lý luận, chiêu bài ổn định và phát triển, do đó, không đứng vững.
Về phương diện thực tế, những sự phá sản của các đại công ty quốc doanh và đặc
biệt, khối nợ nần chồng chất của Việt Nam khiến dân chúng càng ngày càng thấy
rõ vấn đề: các chính sách kinh tế của Việt Nam không hứa hẹn một sự phát triển
nào cả, nếu không muốn nói, ngược lại, chỉ lún sâu vào chỗ bế tắc.
Thành
ra, có thể nói, tất cả các nền tảng chế độ cộng sản Việt Nam muốn nương tựa, từ
chủ nghĩa Marx-Lenin đến chủ nghĩa quốc gia và lập luận ổn định để phát triển,
đều lần lượt sụp đổ. Chế độ cộng sản Việt Nam hiện nay như một đám lục
bình chỉ nổi bập bềnh trên mặt nước. Sự tồn tại của nó chỉ dựa vào sự
trung thành của công an. Do đó, một mặt, đảng cộng sản đưa ra sự khuyến
dụ đối với công an: “Còn đảng, còn mình”; mặt khác, họ ngoảnh mặt làm ngơ trước
hai tệ nạn do công an gây ra: tham nhũng và trấn áp dân chúng một cách dã man.
Nhưng
chính sách này chỉ càng ngày càng biến công an thành một đám kiêu binh và càng
ngày càng đẩy công an cũng như chính quyền trở thành xa lạ với dân chúng.
Sự xa lạ này càng kéo dài và càng trầm trọng, đến một lúc nào đó, trở
thành đối nghịch với quần chúng.
Một
nhà nước được xây dựng trên một đám kiêu binh, trong thời đại ngày nay, chắc
chắn không hứa hẹn đứng vững một chút tương lai nào cả.
__._,_.___