Hội đồng Giám mục Việt Nam không đồng ý "Dự thảo 4 Luật
Tín ngưỡng, Tôn giáo"
HĐGMVN
Kính gửi:
– Ông Nguyễn Sinh Hùng, Chủ tịch Quốc hội Nước CHXHCN Việt Nam,
– Ông Phạm Dũng, Trưởng ban Ban Tôn giáo Chính phủ,
– Ông Phạm Dũng, Trưởng ban Ban Tôn giáo Chính phủ,
Đáp lại yêu cầu xin góp ý cho bản Dự thảo Luật tín ngưỡng, tôn
giáo (sau đây gọi tắt là Dự thảo 4), chúng tôi, Ban Thường vụ, nhân danh Hội
Đồng Giám Mục Việt Nam, xin có một số nhận định và đề nghị sau:
I/ NHẬN ĐỊNH CHUNG
Bản Dự thảo 4 chưa làm rõ mục đích của luật, vì luật được tạo ra
nhằm đảm bảo quyền con người, tạo sự bình đẳng cho các tổ chức, cá nhân có cơ
hội đóng góp vào sự phát triển chung của đất nước, đem lại bình an cho xã hội
cùng cộng đồng dân tộc.
Điều kiện tiên quyết đem lại bình an cho cộng đồng dân tộc là việc
người dân chu toàn bổn phận làm người, – tu thân, tề gia, trị quốc, – phải mang
tính thiên thời, địa lợi, nhân hoà. Thiên thời là thuận ý trời. Địa lợi là lợi
cho truyền thống văn hoá đạo đức dân tộc. Nhân hòa là hoà với lòng nhân, lòng
đạo của người dân.
Trong bản Dự thảo 4 có những điều luật chỉ nhằm mang lại quyền lợi
cho nhà cầm quyền (như Điều 9, cùng những Điều nói về việc đăng ký…), mà quên
đi quyền lợi của người dân, chưa làm rõ tư cách pháp nhân của các tổ chức tôn
giáo.
Điều thiếu sót quan trọng nhất của Dự thảo 4 là không công nhận sự
“tồn tại” hợp pháp của một tổ chức tôn giáo trước pháp luật Việt Nam, qua việc
không công nhận tổ chức tôn giáo là một “pháp nhân” chiếu theo Điều 84-85 của
Bộ Luật Dân sự 2005.
Nhìn chung, bản Dự thảo 4 đi ngược lại với quyền tự do về tín
ngưỡng và tôn giáo, gây lo ngại nhiều hơn là đem lại sự bình an cho mọi người.
II/ MỘT SỐ CHI TIẾT
Dự thảo 4 có rất nhiều Điều, khoản và những chi tiết bất cập,
không nói lên được thiện chí của Nhà nước trong việc tôn trọng sự tự do tín
ngưỡng, tôn giáo của người dân. Ở đây chúng tôi chỉ nêu ra một số Điều, khoản
và chi tiết đáng quan tâm nhất:
1/ Điều 2 khoản 4 chưa giải thích rõ cụm từ “quy định của pháp
luật” là như thế nào.
2/ Điều 6 khoản 5b quy định quá chung chung và mơ hồ, vì có thể có
những mâu thuẫn về đạo đức, luân lý giữa quan điểm của tôn giáo và chính sách
của Nhà nước, như vấn đề phá thai, ly dị, hôn nhân đồng tính… Vì thế, không thể
chấp nhận một sự cấm đoán ở điểm này.
3/ Điều 15 của Dự thảo 4 liệt kê các hoạt động của tổ chức tôn
giáo sau khi được cấp đăng ký hợp pháp. Trong các hoạt động này, thiếu hẳn
những quyền để duy trì sự “tồn tại” của tổ chức tôn giáo. Trong khoản 1 chỉ
công nhận việc “sửa chữa, cải tạo, nâng cấp công trình thuộc cơ sở tôn giáo”,
nhưng lại không nói đến quyền sở hữu và sử dụng cơ sở.
4/ Điều 18 Hiến chương Liên Hiệp Quốc và Điều 24 Hiến pháp Nước
Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam (sửa đổi năm 2013) đều quy định: “Mọi
người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo”. Vì vậy những người đang bị
giam, giữ được đáp ứng nhu cầu tôn giáo theo quy định của Hiến chương Liên Hiệp
Quốc và Hiến pháp.
5/ Điều 9 và Điều 44 Dự thảo 4 là không khả thi, đòi hỏi này vô
lý vì mâu thuẫn với Điều 2 khoản 2.
6/ Điều 32: Hội nghị và đại hội của các tôn giáo không cần sự chấp
thuận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, vì đây là việc nội bộ của các tổ chức
tôn giáo.
7/ Điều 38: Điều này là một bước thụt lùi so với Điều 23 của “Pháp
lệnh tín ngưỡng, tôn giáo”, Điều 19 của Nghị định 22 và Điều 23 của Nghị định
92.
8/ Điều 49: Đòi hỏi quá nặng nề và phiền toái. Chức sắc, chức
việc, nhà tu hành, tín đồ tham gia hoạt động tôn giáo, khóa đào tạo tôn
giáo ở nước ngoài là vấn đề thuần túy tôn giáo, không cần phải được sự chấp
thuận của cơ quan quản lý nhà nước. Nhà nước không nên xen quá sâu vào công
việc nội bộ các tôn giáo.
9/ Điều 50 qui định khá mơ hồ: “tổ chức tôn giáo quốc tế” là gì?
Thế nào là “tham gia tổ chức tôn giáo quốc tế”? Qui định mơ hồ sẽ gây khó
khăn cho các hoạt động tôn giáo.
10/ Điều 51 khoản 1: “…tổ chức tôn giáo… được tổ chức quyên góp,
nhận tài sản hiến tặng, cho trên cơ sở tự nguyện…”. Điều này vẫn không nói đến
hay hạn chế các hoạt động của tổ chức tôn giáo như: quản lý và sử dụng tài sản
hay tài khoản ngân hàng, mua bán hay chuyển nhượng cơ sở tôn giáo theo nhu cầu
thực tế…
11/ Điều 52: Các tổ chức tôn giáo phải được tự do hoạt động trong
các lãnh vực từ thiện, nhân đạo và không có hạn chế nào.
12/ Điều 54: Phải hiểu như thế nào là “tài sản hợp pháp” khi các
tổ chức tôn giáo chưa được công nhận tư cách pháp nhân?
13/ Điều 66: Quy định về việc giải quyết khiếu nại, khiếu kiện,
nhưng chỉ nói đến việc khiếu nại, khởi kiện quyết định hành chính, hành vi hành
chính theo luật tố tụng hành chính. Việc tổ chức tôn giáo có quyền khiếu kiện
tại toà án các cấp để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình không được đề cập:
chẳng hạn khi bị lấn chiếm đất đai, cơ sở tôn giáo.
14/ Chương X và chương XI không tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng,
tôn giáo; hoàn toàn mang tính chất áp đặt quyền lực của Nhà nước lên các tổ
chức tôn giáo, tạo kẽ hở cho cơ quan hành pháp lạm dụng quyền lực. Vì vậy, hai
chương này tự mâu thuẫn với Điều 2 trong Dự thảo 4 cũng như với Hiến pháp năm
1992 và sửa đổi năm 2013.
III/ KIẾN NGHỊ
Bản Dự thảo 4 đi ngược lại với Tuyên Ngôn Nhân Quyền Quốc Tế (Điều
18) và Hiến pháp Nước CHXHCN Việt Nam sửa đổi năm 2013 (Điều 24). Chúng tôi
nhận thấy Dự thảo 4 này là một bước thụt lùi so với Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn
giáo năm 2004. Bản Dự thảo này tạo ra quá nhiều thủ tục rườm rà, nhiều cơ chế
khắt khe, ràng buộc, khiến các sinh hoạt tôn giáo bị cản trở.
Vì vậy, chúng tôi đề nghị:
– Không đồng ý Dự thảo 4 Luật tín ngưỡng, tôn giáo.
– Soạn lại một bản Dự thảo khác phù hợp với xu thế tự do, dân chủ
và mang tầm vóc của xã hội tiến bộ.
– Bản Dự thảo mới phải được tham khảo ý kiến từ các tổ chức tôn
giáo. Đặc biệt, các tổ chức tôn giáo phải được công nhận tư cách pháp nhân và
được pháp luật bảo vệ.
Tp. HCM, ngày 04 tháng 05 năm 2015
TM. Ban Thường vụ Hội Đồng Giám Mục Việt Nam
Tổng thư ký
(đã ký)
+ Cosma Hoàng Văn Đạt SJ
Tổng thư ký
(đã ký)
+ Cosma Hoàng Văn Đạt SJ
(WHĐ)
No comments:
Post a Comment