Trung Quốc giật dây vấn
đề biên giới Việt Nam-Campuchia?
Nam Nguyên, phóng viên RFA
2015-07-23
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và Thủ tướng Samdech Hunsen tại lễ khánh
thành cột mốc 314 ngày 24/06/2012
RFA
Tranh chấp biên giới giữa Việt Nam và Campuchia gần đây rất căng
thẳng và dễ trở thành xung đột. Liên Hiệp Quốc đã đáp ứng yêu cầu của Thủ tướng
Campuchia Hun Sen cung cấp một phần thông tin về bản đồ phân định biên giới với
Việt Nam. Nguyên do nào khiến Phnompenh khuấy động vấn đề biên giới, mặc dù hai
bên đã có các Hiệp định phân định biên giới năm 1983, năm 1985 và Hiệp ước bổ
sung 2005. Nam Nguyên phỏng vấn Tiến sĩ Trần Công Trục, nguyên trưởng Ban Biên
giới Chính phủ hiện sống và làm việc ở Hà Nội về vấn đề này.
Nam Nguyên: Thưa TS Việt Nam và Campuchia đã phân định đương biên giới theo
hiệp định 1985 và trên cơ sở bản đồ Bonne do chính Quốc vương Norodom Sihanouk
bảo lưu tại LHQ. Khúc mắc chính trong vấn đề biên giới giữa hai nước hiện nay
là gì?
TS Trần Công Trục: Như các bạn đã biết Việt nam và Campuchia đã trải qua một quá
trình giải quyết biên giới và lãnh thổ của hai nước, bắt đầu khi chế độ diệt
chủng Pôn Pốt bị lật đổ, chính phủ Cộng hòa Nhân dân Campuchia được thành lập.
Vấn đề đầu tiên hai bên thỏa thuận được một hiệp ước về nguyên tắc, là dùng
đường biên giới thể hiện trên 26 mảnh bản đồ Bonne của sở Địa dư Đông Dương
xuất bản trước năm 1954 hoặc gần năm 1954 làm cơ sở pháp lý, để hai bên dựa vào
đó mà giải quyết vấn đề hoạch định biên giới và sau đó là vấn đề phân định biên
giới cắm mốc, để giải quyết các tồn đọng về vấn đề biên giới giữa hai nước.
Vấn đề ở đây tại sao hiện nay có một số người Campuchia, một số
chính khách cũng như dư luận Campuchia nói rằng là, nếu dựa vào bản đồ đó thì
vấn đề phân giới cắm mốc và các thỏa thuận của hai bên có những sự không đúng.
Nó có câu chuyện thế này, khi mà xem xét 26 bản đồ gốc đó thì có một số của hai
bên đưa ra không phải là bản gốc.
Thứ hai là có một số dường như bị cạo sửa,
điều này cần lưu ý. Về nguyên tắc đã thông qua bản đồ thì không ai có thể chối
bỏ được, nói như vậy vì chính Campuchia chính vua Sihanouk đã gởi lên Liên Hiệp
Quốc để xin đăng ký lưu chiểu 26 tấm bản đồ phân định đường biên giới với Việt
Nam. Vấn đề quan trọng khi xem xét nó là xem xét các tấm bản đồ đó có bị thay
đổi cạo sửa hay không.
Về nguyên tắc đã thông qua bản đồ thì không ai có thể chối bỏ
được, nói như vậy vì chính Campuchia chính vua Sihanouk đã gởi lên Liên Hiệp
Quốc để xin đăng ký lưu chiểu 26 tấm bản đồ phân định đường biên giới với Việt
Nam
TS Trần Công Trục
Tôi cho rằng phía Campuchia hiện nay đã có sự nhìn nhận về chuyện
đưa ra các bản đồ mà dường như đã bị cạo sửa, mà hai bên đã phát hiện ra. Họ
dùng chuyện đó để nói rằng vấn đề giải quyết đường biên giới giữa hai bên có sự
bất công, không công bằng giữa Việt Nam và Campuchia. Tôi muốn nói thêm về xử
lý các bản đồ là như vậy.
Nam Nguyên: Thưa Tiến sĩ, Thủ tướng Hun Sen mượn các bản đồ bảo lưu tại LHQ
thì điều này có gây quan ngại cho VN hay không, ngoài bản đồ Bonne còn các bản
đồ nào khác từ thời pháp thuộc hay các triều đình VN mà khác với bản đồ Bonne
hay không và họ có thể dựa trên các bản đồ khác hay không.
Ngày 19 tháng 7 vừa qua, hàng ngàn người Campuchia do Đảng Cứu
Quốc dẫn đầu đã đến khu vực biên giới giữa Campuchia và Việt Nam ở cột mốc 203
đòi kiểm tra việc phân giới cắm mốc giữa Việt Nam và Campuchia. RFA
TS Trần Công Trục: Các bạn nên nhớ rằng phía Việt Nam và Campuchia đồng thuận đường
biên giới thể hiện trên 26 mảnh bản đồ gốc do Pháp xuất bản chứ ngoài ra không
có thứ bàn đồ nào khác. Khi đã thống nhất lựa chọn 26 tấm bản đồ gốc không có
cạo sửa, thì các chuyên gia kỹ thuật bản đồ của hai bên phải chuyển đổi đường
biên giới trên bản đồ Bonne đó sang một loại bản đồ địa hình, mà hai bên thống
nhất và dùng làm bản đồ kèm theo hiệp ước hoạch định, là bản đồ UTM của Mỹ sản
xuất. Đây là cả một vấn đề kỹ thuật. Các chuyên gia kỹ thuật bản đồ từ hệ qui
chiếu bản đồ Bonne khác với hệ qui chiếu UTM của Mỹ, bây gờ chuyển sang toàn bộ
được mô tả theo bản đồ UTM của Mỹ và kèm theo hiệp ước hoạch định biên giới mà
hai bên ký kết vào năm 1985.
Trên cơ sở hiệp định ký kết theo đúng thủ tục pháp lý, đường biên
giới được mô tả trên hiệp ước đó cũng như bản đồ UTM của Mỹ được chuyển đổi từ
bản đồ Bonne của Pháp sang. Đó là cơ sở pháp lý duy nhất để hai bên triển khai
công tác phân giới cắm mốc và nếu như xem xét đối chiếu người ta phải dùng bản
đồ UTM của Mỹ đã được chuyển từ bản đồ Bonne sang đấy để mà xem các vị trí các
bên cắm mốc đúng hay sai, chứ không thể dùng bản đồ Bonne để tính toán được
nữa. Tôi xin nói về mặt kỹ thuật nếu mà không nhất quán thì sẽ tạo ra ngộ nhận,
đây hoàn toàn là vấn đề kỹ thuật.
Nam Nguyên: Thưa, trên báo chí Việt Nam mấy ngày hôm nay Có những ý kiến về
khả năng có bên thứ ba kích động vấn đề tranh chấp biên giới Việt
Nam-Campuchia, đặc biệt báo chí hôm nay đưa tin Campuchia thắt chặt liên minh
quân sự với Trung Quốc. Tiến sĩ nhận định gì?
Tôi hoàn toàn chia sẻ với nhiều ý kiến và thông tin đã nói, là đã
có người chống lưng cho các chính khách của các đảng phái đối lập về mặt chính
trị, để dùng vấn đề biên giới kích động gây ra mất uy tín cho đảng cầm quyền
chính phủ Campuchia và đồng thời chia rẽ mối quan hệ láng giềng giữa VN và
Campuchia, đó chính là TQ
TS Trần Công Trục
TS Trần Công Trục: Rõ ràng đây là một thông tin mà tôi cho là hoàn toàn chuẩn xác,
bởi vì câu chuyện ở Campuchia đang dựa vào thực tế những vấn đề biên giới, vấn
đề dân tộc để hạ uy tín đảng cầm quyền hiện nay của Campuchia, trong việc tranh
giành ghế cho mình tại Quốc hội trong kỳ bầu cử sắp tới. Một trong những lý do
để có thể tranh thủ lá phiếu của người dân Campuchia chính là vấn đề biên giới.
Họ đưa ra những thông tin mập mờ người dân bình thường không biết, không hiểu
rõ các vấn đề như vậy thì họ có thể bị kích động, để nói rằng trong vấn đề đàm
phán bây giờ chính phủ Campuchia có nhu nhược hay là làm không đúng làm sai.
Nếu các bạn theo dõi những phát biểu của Thủ tướng Hun Sen hoặc phát biểu của
những người đàm phán biên giới người ta đã nói rất rõ rồi.
Tất nhiên đàng sau tất cả những cái đó, tôi nghĩ rằng và tôi hoàn
toàn chia sẻ với nhiều ý kiến và thông tin đã nói, là đã có người chống lưng
cho các chính khách của các đảng phái đối lập về mặt chính trị, để dùng vấn đề
biên giới kích động gây ra mất uy tín cho đảng cầm quyền chính phủ Campuchia và
đồng thời chia rẽ mối quan hệ láng giềng giữa Việt Nam và Campuchia, đó chính
là Trung Quốc.
Trung Quốc là bên đã có những hoạt động ráo riết trong việc giúp
đỡ cho các chính khách các đảng đối lập như là Sam Rainsy. Các bạn nhớ rằng,
Sam Rainsy đã từng tuyên bố Trung Quốc là tương lai của nhân loại, là người mà
Campuchia có thể hoàn toàn tin tưởng. Bây giờ họ làm rất nhiều việc chúng ta đã
biết rồi, không phải dấu diếm nữa người ta đã hỗ trợ về mặt ngoại giao, về mặt
quốc phòng, kinh tế.
Họ làm mọi cách để dùng Campuchia gây ra những bất ổn trong khu
vực, cả vấn đề biển Đông mọi người đã biết rồi. Cho nên là qua lịch sử phải biết
chuyện Pôn Pốt đã gây ra cuộc chiến tranh biên giới tàn sát nhân dân năm 1979,
chính là có bàn tay của một số người trong đảng cầm quyền của Trung Quốc. Rõ
ràng chúng ta biết cả và hiện nay tôi nghĩ rằng người chống lưng cho các lực
lượng đó chính là Trung Quốc.
Nam Nguyên: Cảm ơn TS Trần Công Trục đã trả lời phỏng vấn.
Tiêm kích F/A18 Hornet của Hải quân Mỹ trên không phận Biển Đông
(ảnh wikipedia)
Trung Quốc lúc nào cũng tố cáo Mỹ đi ngược lại lập trường mà
Washington luôn khẳng định là « trung lập », không đứng về bên nào trong tranh
chấp Biển Đông. Nhân vật phụ trách châu Á tại Bộ Ngoại giao Mỹ vào hôm qua,
21/07/2015 đã nói lại cho rõ : Hoa Kỳ không hề trung lập trong vấn đề tôn trọng
luật pháp quốc tế ở Biển Đông, và sẽ can dự mạnh mẽ để đảm bảo sao cho tất cả
các bên đều tuân thủ luật lệ.
Ông Daniel Russell, Trợ lý Ngoại trưởng Mỹ đặc trách Đông Á-Thái
Bình Dương đã khẳng định một cách rõ ràng lập trường trên đây của Hoa Kỳ nhân
Hội nghị khoa học lần thứ năm về Biển Đông do Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược
và Quốc tế CSIS ở Washington tổ chức.
Theo báo mạng Nhật Bản The Diplomat số ra ngày hôm nay, 22/07, nhà
ngoại giao Mỹ đã làm rõ quan điểm của Mỹ về Biển Đông khi trả lời chất vấn của
một người Trung Quốc tham gia Hội nghị về sự « trung lập » của Mỹ trong hồ sơ
Biển Đông.
Cho đến nay, Washington luôn luôn khẳng định rằng dù không đứng về
bên nào trong cuộc tranh chấp chủ quyền lãnh thổ ở Biển Đông, nhưng Mỹ mong
muốn là vấn đề được giải quyết đúng theo quy định của luật pháp quốc tế mà
không được dùng đến các biện pháp cưỡng bức. Quan điểm đó tuy nhiên đã bị hiểu
sai thành ‘trung lập thuần túy’, nhất là Trung Quốc, lúc nào cũng tố cáo
Washington ‘thiên vị’.
Theo ông Russel, lập trường trung lập của Mỹ chỉ áp dụng cho các
đòi hỏi chủ quyền, chứ không áp dụng cho cách thức giải quyết tranh chấp : «
Chúng tôi không hề trung lập khi vấn đề tôn trọng luật pháp quốc tế được đặt
ra. Chúng tôi sẽ can dự mạnh mẽ khi nói đến nhu cầu tuân thủ các luật lệ ».
Trong phát biểu của mình tại CSIS, Trợ lý Ngoại trưởng Mỹ xác nhận
rằng Hoa Kỳ đang khuyến khích các bên liên quan ở Biển Đông tạo ra không khí và
điều kiện thuận lợi để xử lý các tranh chấp bằng phương cách hòa bình, ngoại
giao và hợp pháp, cho dù tình hình đang căng thẳng lên một phần vì các hành
động quyết đoán của Trung Quốc.
Đối với ông Russel, cần phải nỗ lực giảm mức độ căng thẳng hiện
nay, tạo ra một không khí thuận lợi cho việc giải quyết hòa bình tranh chấp
theo hai hướng : thương thuyết và trọng tài.
Để làm điều này, các bên tranh chấp – tất cả, chứ không riêng gì
Trung Quốc – cần phải chấm dứt các hành động gây căng thẳng, như cải tạo đất,
xây dựng và quân sự hóa các cơ sở. Trung Quốc hiện bị cáo buộc nước gây căng
thẳng, với các công trình bồi đắp đảo đá và xây dựng cơ sở rầm rộ ở Biển Đông.
Về hướng thương thuyết giữa các bên tranh chấp, ông Russel công
nhận rằng đây là một thách thức lớn trong bối cảnh hiện nay. Dù không nêu đích
danh Trung Quốc, nhưng Trợ lý Ngoại trưởng Mỹ đã lưu ý rằng các tuyên bố « độc
đoán » của một số quốc gia, theo đó họ có chủ quyền « không thể chối cãi » tại
Biển Đông, đang là cản lực được dựng lên trên con đường đàm phán.
Về hướng nhờ trọng tài quốc tế, ông Russel nêu bật vụ Philippines
kiện Trung Quốc tại Tòa án Trọng tài Thường trự. Đối với Trợ lý Ngoại trưởng
Mỹ, cho dù kết quả ra sao, cả Bắc Kinh lẫn Manila đều phải chấp hành quyết định
mang tính ràng buộc về mặt pháp lý của tòa án, vì cả hai đều đã ký kết Công ước
Liên Hiệp Quốc về Luật Biển.
Về phần nước Mỹ, ông Russel tái khẳng định quyết tâm của Hoa Kỳ
trong việc tôn trọng lời hứa bảo vệ các đồng minh và cam kết bảo đảm an ninh
khu vực, cũng như giúp phát triển các tổ chức có hiệu quả về an ninh. Để làm
điều này, Hoa Kỳ sẽ giúp các quốc gia duyên hải nâng cao năng lực giám sát vùng
biển của mình, đồng thời tiếp tục các chiến dịch nhằm thể hiện quyền tự do lưu
thông trên Biển Đông.
Máy bay tuần tra biển Kawasaki P-1 của Nhật Bản (ảnh:
Wikipedia.org)
Theo báo Asia Nikkei, số ra ngày hôm nay, 23/07/2015, trình độ
công nghệ chế tạo máy bay tuần tra biển của Nhật Bản ngày càng thu hút sự chú
ý, không chỉ của Hoa Kỳ, đồng minh chủ chốt của Tokyo mà cả Châu Âu hiện đang
lo ngại về các hoạt động của tàu ngầm Nga.
P-1, do tập đoàn Công nghiệp nặng Kawasaki chế tạo cho Lực lượng
phòng vệ Nhật Bản (quân đội Nhật Bản) là loại máy bay tuần tra chống tàu ngầm
đầu tiên được chế tạo tại nước này.
Nhiệm vụ chính của P-1 là tiến hành các hoạt động cảnh báo và giám
sát. Máy bay này còn được mệnh danh là « sát
thủ tàu ngầm » bởi vì có khả năng phát hiện và tấn công tàu ngầm mà
mắt thường không thể nhìn thấy được.
Hải quân Nhật Bản hiện có khoảng 10 chiếc P-1 được triển khai tại
căn cứ không quân Atsugi, ở Kanagawa. Cho đến nay, các máy bay này vẫn đang
trong giai đoạn hoạt động thử và sẽ được đưa vào hoạt động chính thức vào đầu
năm tài khóa này.
Giá mỗi chiếc P-1 khoảng 20 tỷ yên (163 triệu đô la). Bộ Quốc
phòng Nhật Bản dự tính kể từ 2018, mỗi năm trang bị 5 chiếc và như vậy có thể
triển khai tổng cộng khoảng 70 chiếc.
Ngày 25/06 vừa qua, Hải quân Nhật Bản lần đầu tiên đã giới thiệu
máy bay P-1 với giới truyền thông, miêu tả những cải tiến của P-1 so với máy
bay P-3, phương tiện chính hiện nay để tuần tra biển của Nhật Bản.
P-1 có màn hình radar mầu, tạo thuận lợi cho việc phát hiện và
theo dõi các tàu khả nghi và hệ thống phao âm thu thập các dữ kiện âm thanh và
xác định vị trí của tàu ngầm, cũng được cải tiến hơn.
Ngoài ra, P-1 là máy bay phản lực, do vậy có tốc độ tối đa nhanh
hơn 30% so với P-3 có động cơ cánh quạt. P-1 cũng có tầm hoạt động xa hơn,
khoảng 8000 km, so với P-3 chỉ là 6600 km.
Mong đợi của Mỹ
Quân đội Mỹ đang gia tăng các hoạt động giám sát tại Biển Đông, sử
dụng máy bay tuần tra biển P-8, để đối phó với những hành động của Trung Quốc
xây dựng các cơ sở hỗ trợ quân sự trên các đảo được bồi đắp.
Mỹ không có căn cứ thường trực tại Biển Đông, do vậy, không phải
là dễ dàng để tiếp tục các hoạt động giám sát như vậy về lâu dài, với các
phương tiện hiện có.
Một quan chức Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ đã bày tỏ hy vọng là quân đội
Mỹ và Lực lượng phòng vệ Nhật Bản sẽ hợp tác với nhau, cùng tiến hành tuần tra
ở Biển Đông và nhấn mạnh rằng cả hai nước có những lợi ích chung ở đây, cũng
như tại biển Hoa Đông.
Cho đến nay, Lực lượng phòng vệ Nhật Bản không tiến hành các hoạt
động giám sát tuần tra ở Biển Đông bởi vì vùng này cách căn cứ không quân gần
nhất là Naha, ở Okinawa, khoảng 2000 km.
Một quan chức cao cấp của Lực lượng phòng vệ Nhật Bản nói : « Có thể là máy bay của chúng tôi đủ
khả năng bay từ Naha tới Biển Đông rồi quay lại, nhưng khó có thể ở lại đó đủ
lâu để tiến hành các hoạt động giám sát ».
Quân đội Mỹ cũng biết là việc đưa máy bay P-1 vào hoạt động trên
quy mô lớn sẽ không làm thay đổi đáng kể tình hình trong khu vực.
Một nguồn tin chính phủ Nhật Bản cho biết, « quân đội Mỹ không đưa ra đòi hỏi đặc
biệt nào liên quan đến các hoạt động cảnh báo và giám sát tại Biển Đông ».
Vậy thì quân đội Mỹ chờ mong gì ở Nhật Bản ?
Một cựu quan chức cao cấp của chính phủ Mỹ hiểu rõ tính toán của
Bộ Quốc phòng, nói rằng đối với Lực lượng phòng thủ Nhật Bản, sẽ là thực tế hơn
nếu như tham gia vào các hoạt động cảnh báo và giám sát với quân đội Mỹ, ở biển
Hoa Đông. Mối quan hệ hợp tác này sẽ cho phép Hoa Kỳ gia tăng các hoạt động tại
Biển Đông.
Mối quan tâm của Anh Quốc
Máy bay P-1 cũng thu hút sự chú ý của Châu Âu.
Hồ sơ máy bay P-1 là một điểm quan trọng được thảo luận khi Nhật
Bản và Anh tiến hành cuộc gặp « 2+2
» đầu tiên, bao gồm các Bộ trưởng Quốc phòng và Ngoại giao, tại Luân Đôn hồi
cuối tháng Giêng.
Website thông tin quốc phòng của Mỹ - DoD Buzz, cho biết, Anh Quốc
đã quan tâm đến việc mua máy bay P-1, trong bối cảnh quan hệ giữa phương Tây và
Nga xấu đi.
Một nguồn tin ngoại giao Châu Âu cho biết, « Quan hệ giữa Phương Tây và Nga càng
giá lạnh do cuộc khủng hoảng Ukraina, thì hoạt động quân sự rầm rộ của Nga càng
gần đường biên giới Châu Âu hơn ».
Vẫn theo nguồn tin này, « trong
vùng biển gần Anh Quốc và các nước Bắc Âu, các hoạt động di chuyển đáng ngờ của
tàu ngầm Nga ngày càng gia tăng ».
Do tình hình này, lần đầu tiên kể từ khi kết thúc chiến tranh
lạnh, Anh Quốc có thể cố gắng đẩy mạnh khả năng tuần tra chống tàu ngầm một
cách sớm nhất.
__._,_.___
Posted by: ly vanxuan