Việt Nam






Thursday, 1 October 2015

Tại sao Hoa Kỳ và Việt Nam cần thắt chặt quan hệ




 
Tại sao Hoa Kỳ và Việt Nam cần thắt chặt quan hệ

Trường Sơn chuyển ngữ,
Alexander Benard & Paul J. Leaf
http://gocque.com/attachment.php?aid=1328
Bắc Kinh đang ngày càng chứng minh cho Hà Nội thấy rằng chính phủ này khao khát quyền bá chủ trong khu vực và sẽ chà đạp quyền lợi của bất kỳ quốc gia nào không tuân phục…”

Quan hệ Mỹ-Việt đã tiến triển tốt hơn trong vài năm qua, chủ yếu do mối quan ngại từ cả hai nước trước những động thái gây hấn ngày càng tăng của Trung Quốc ở Biển Đông. Nhưng đà tiến trì trệ của nhiều phần trong mối quan hệ này càng củng cố niềm tin của Trung Quốc rằng họ có thể tiếp tục uy hiếp Việt Nam như  một phần của tiến trình xâm lấn nhằm kiểm soát khu vực mà không gặp phải sự phản đối nghiêm trọng nào. Thật vậy, Trung Quốc gần đây đã đưa một giàn khoan dầu vào vùng biển Việt Nam, và chỉ vài tuần trước, chính quyền Bắc Kinh tuyên bố sẽ để giàn khoan này hoạt động ít nhất vài tháng ở đó. Nhưng động thái khiêu khích mới nhất này, cùng việc Trung Quốc khẳng định trong tuần trước rằng sẽ tận dụng mọi nguồn lực để nâng cao hơn nữa sức mạnh hải quân và không quân, có thể thúc đẩy chính phủ Hoa Kỳ và Việt Nam tiến tới cùng làm việc về một số vấn đề trọng yếu trong quan hệ đối tác đang trên đà phát triển.

Bối cảnh
Trong tháng 5 năm 2014, chỉ ba ngày sau khi Tổng thống Obama kết thúc chuyến công du châu Á với mục tiêu trấn an các đồng minh trong khu vực, Bắc Kinh gần như gây ra một cuộc khủng hoảng gần quần đảo Hoàng Sa, nơi Bắc Kinh đang chiếm đóng cùng với tuyên bố chủ quyền của chính quyền Hà Nội. Được hỗ trợ bởi “một số lượng lớn các tàu”, Trung Quốc đã đưa một giàn khoan dầu trực thuộc nhà nước tiến khoảng 80 dặm vào trong vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của Việt Nam được quốc tế công nhận, nghĩa là đã vươn xa hơn 200 dặm từ bờ biển của họ. Bắc Kinh lập luận rằng họ kiểm soát những vùng biển này bởi vì chúng thuộc vùng EEZ tạo ra bởi quần đảo Hoàng Sa. Việt Nam đã can thiệp bằng cách gửi khoảng ba mươi tàu vào khu vực. Xung đột đã kéo dài trong bảy mươi lăm ngày sau đó, Trung Quốc đã phái quân đội đến bảo vệ giàn khoan và lực lượng tàu của hai nước liên tục phun vòi rồng và đâm vào nhau. Trung Quốc đã đánh chìm một tàu Việt Nam và những cuộc bạo động chống Trung Quốc nổ ra ở Việt Nam. Trung Quốc cuối cùng đã rút lui sau khi hoàn tất cuộc thử nghiệm, nhưng cảnh báo rằng họ hoàn toàn có thể quay lại.

Hoa Kỳ cho rằng những cử chỉ này của Trung Quốc mang tính “khiêu khích” nhưng họ không đưa ra biện pháp trừng phạt nào. Hoa Kỳ tiếp tục bán vũ khí gây sát thương cho Việt Nam đồng thời cũng từ chối hòa giải xung đột và không gửi quân đến khu vực này. Nhận thấy một Hoa Kỳ không muốn dấn sâu vào chuyện này, cũng như ưu thế hải quân của Trung Quốc, chính phủ Việt Nam cố gắng tránh tranh chấp với chủ đầu tư và đối tác thương mại lớn nhất của họ, xem cuộc xung đột này như một bất đồng “giữa những người anh em” và nối lại quan hệ quân sự với Trung Quốc. Với sức mạnh quân sự vượt trội trong khu vực, Washington cũng không thể ngăn chặn đà tiến của quân đội Trung Quốc và đang đứng ngoài cuộc, còn Trung Quốc đã khẳng định được với những kẻ đối đầu rằng họ phải chấp nhận sự trỗi dậy không thể lay chuyển của siêu cường này.
Để nhấn mạnh thông điệp này, trong tháng 6 vừa qua, chỉ vài tuần trước khi nhà lãnh đạo hàng đầu của Việt Nam đến thăm Hoa Kỳ, Trung Quốc tiếp tục triển khai một giàn khoan trong một khu vực khác của vùng EEZ Việt Nam (chồng lấn với vùng EEZ tạo ra bởi Đảo Hải Nam của Trung Quốc) để thăm dò những nguồn tài nguyên biển tiềm tàng. Bắc Kinh cảnh cáo các tàu nước ngoài phải ở cách giàn khoan ít nhất 2.000 m (6,562 feet). Đợt thăm dò này dự kiến sẽ kết thúc vào ngày 20 tháng 8 năm 2015. Nhưng đến tuần trước, Trung Quốc lại đưa giàn khoan này tiến sâu hơn vào lãnh hải Việt Nam (trong phạm vi 110 dặm từ bờ biển Việt Nam) và để giàn khoan hoạt động ở đó thêm hai tháng.

Tại sao hành động của Trung Quốc gây tác động đến vậy?
Những hành vi này của Trung Quốc đều đặc biệt đáng báo động bởi đó là một phần trong mô hình xâm lấn liên tục sau cuộc khủng hoảng giàn khoan đầu tiên. Trong mùa hè này, Bắc Kinh tuyên bố đã hoàn thành chương trình bồi đắp đảo nhân tạo chưa từng có trong cuộc tranh chấp Biển Đông, cũng như công bố kế hoạch tiếp tục xây dựng các cơ sở quân sự ở đó. Trong tháng 7, Trung Quốc đã tổ chức một cuộc tập trận tấn công chiếm đảo ở Biển Đông, và điều động rất nhiều tàu chiến (gồm cả lực lượng hạt nhân) và máy bay bắn đạn thật trên những vùng biển này. Tuần trước, trong vùng biển Nhật Bản, Trung Quốc hoàn thành cuộc tập trận hải quân quy mô nhất với Nga.

 Trong tuần này, Bắc Kinh cũng vừa giới thiệu những vũ khí tiên tiến nhất trong đợt diễu binh đánh dấu ngày Tokyo bại trận trong Thế chiến Thứ hai, và thông báo rằng chính phủ này sẽ thu nhỏ quy mô quân đội để tập trung nhiều nguồn lực hơn vào lực lượng hải quân và không quân, đều là những lĩnh vực trọng yếu để duy trì quyền kiểm soát quân sự bên ngoài. Và lần đầu tiên, Trung Quốc mở rộng hoạt động hải quân đến tận ngoài khơi bờ biển Alaska (trong vòng 12 dặm), ngay lúc Tổng thống Obama đến thăm bang này.

Nhận thức được tham vọng bành trướng của Trung Quốc, Hoa Kỳ và Việt Nam đều đang thúc đẩy quan hệ giữa hai nước. Ví dụ, họ đã tăng tần suất các cuộc tập trận chung, cũng như những chuyến thăm cấp cao giữa hai chính phủ; Hoa Kỳ đã cung cấp lượng khí tài trị giá 18 triệu USD để giúp Việt Nam bảo vệ bờ biển, và Washington cũng nới lỏng một số lệnh cấm bán vũ khí gây sát thương cho Hà Nội.

Cả hai nước đều muốn đạt được nhiều hơn, nhưng cả Hoa Kỳ lẫn Việt Nam đều chưa ở vào hoàn cảnh phải gấp rút nỗ lực như vậy. Chính quyền của Tổng thống Obama cũng không muốn khiêu khích Bắc Kinh, thể hiện qua cách họ phản ứng như một kẻ ngoài cuộc trong cuộc khủng hoảng giàn khoan đầu tiên, cũng như đã không tiến vào giới hạn 12 dặm lãnh hải xung quanh hệ thống đảo nhân tạo của Trung Quốc ở Biển Đông. Chính Washington cũng chùn bước trước yêu cầu thúc đẩy quan hệ với Hà Nội bởi hồ sơ nhân quyền đầy vết nhơ của nước này. Trong khi đó, mâu thuẫn luôn tiềm ẩn trong chính quyền Hà Nội bởi sự hiện diện của cả phe thân Hoa Kỳ và phe thân Trung Quốc. Nhóm thứ hai tin rằng mục tiêu kiểm soát Biển Đông như một sân sau của Trung Quốc rất quan trọng với quốc gia này, trong khi với Hoa Kỳ thì đây chỉ một khu vực xa xôi. Như vậy, khả năng Washington sẵn sàng mạnh tay với Bắc Kinh vẫn còn trong vòng nghi vấn, đặc biệt là khi Hoa Kỳ vẫn đang sa lầy ở nhiều khu vực trên thế giới và phải cắt giảm chi tiêu quân sự.
Nhưng hành động khiêu khích mới nhất của Trung Quốc là một cơ hội để vượt qua những trở ngại này. Bắc Kinh đang ngày càng chứng minh cho Hà Nội thấy rằng chính phủ này khao khát quyền bá chủ trong khu vực và sẽ chà đạp quyền lợi của bất kỳ quốc gia nào không tuân phục, qua đó cung cấp một luận cứ mạnh mẽ cho bất cứ ai muốn thúc đẩy quan hệ Mỹ-Việt.

Phe thân Hoa Kỳ của Việt Nam phải ngay lập tức vận động người Mỹ tiếp cận nhiều hơn hệ thống cơ sở quân sự ở Việt Nam. Việt Nam có thể duy trì quyền kiểm soát quân sự của họ, nhưng chính quyền này phải để cho quân đội Hoa Kỳ quyền tiếp cận thường trực và cho phép họ xây dựng cơ sở hạ tầng và thiết bị tiền phương mới. Như vậy, Washington có thể triển khai lực lượng ở vùng biển phía nam Trung Quốc dễ dàng hơn và Bắc Kinh có thể nản chí, họ không thể tiếp tục quấy rối Hà Nội nữa. Việt Nam cũng nên mở rộng số lần Hải quân Mỹ đến thăm cảng Việt Nam (hiện tại giới hạn trong một lần mỗi năm), cũng như để người Mỹ có quyền tiếp cận cảng nước sâu chiến lược quan trọng nhất của chính quyền Hà Nội tại vịnh Cam Ranh.

Về mặt kinh tế, Hà Nội cần tiếp tục hành động theo như kêu gọi cải cách của Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (Trans-Pacific Partnership – TPP), thỏa thuận thương mại tự do hiện đang được đàm phán giữa 12 quốc gia trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Bằng cách tham gia TPP, Việt Nam có thể giảm sự phụ thuộc kinh tế vào Trung Quốc, giúp nền kinh tế nước này tự do hơn để theo đuổi lợi ích quốc gia ngay cả trong thời khắc xung đột với Trung Quốc. Cuối cùng, Việt Nam phải cải thiện hồ sơ nhân quyền để thúc đẩy quan hệ chặt chẽ với Hoa Kỳ.

Trong khi đó, Washington cũng phải đáp lại tương ứng. Đầu tiên, ngay cả sau khi có phần nới lỏng lệnh cấm bán vũ khí gây sát thương cho Việt Nam, Hoa Kỳ vẫn chưa tích cực góp phần vực dậy khả năng quân sự của đất nước này do mối quan ngại về nhân quyền. Hoa Kỳ cần tiếp tục thúc đẩy Việt Nam cải thiện hồ sơ nhân quyền, trong khi chuẩn bị hỗ trợ mục tiêu giám sát hàng hải và công nghệ hải quân khác cho chính quyền Hà Nội, mà không đe dọa quyền lợi của người Việt.

Thứ hai, Tổng thống Obama sẽ lấy vấn đề căng thẳng ở Biển Đông và hành động gây hấn của Trung Quốc với Việt Nam làm những chủ điểm để bàn luận trong chuyến thăm Washington sắp tới của Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình, như vậy sẽ khẳng định với Việt Nam rằng lập trường của Hoa Kỳ vẫn là chống lại mọi hành động xâm phạm lãnh thổ Việt Nam một cách nghiêm túc và người Mỹ không ngần ngại đối đầu với Trung Quốc.
Thứ ba, Hoa Kỳ cần phải vận động Việt Nam kết nối sâu hơn với những quan hệ an ninh khu vực khác, kể cả bằng cách khuyến khích chính quyền Hà Nội cùng phát triển vũ khí, mời họ tham gia tập trận quân sự đa phương và cùng tiến hành tuần tra duyên hải, cũng như khuyến khích họ mua vũ khí của Mỹ, châu Âu và Nhật Bản. Việc hạn chế sự phụ thuộc của Việt Nam vào công nghệ quân sự của người Nga (Moscow hiện đang là nhà cung cấp vũ khí chính của Hà Nội) cũng sẽ tăng cường khả năng tương tác giữa Việt Nam với Hoa Kỳ và các đồng minh, cũng như tăng cường liên lạc quân sự giữa các nước này.

Thứ tư, Hoa Kỳ phải kết thúc sớm đàm phán TPP, như vậy sẽ có lợi cho Hoa Kỳ và Việt Nam, cả về mặt chiến lược và kinh tế.
Hà Nội có thể trở thành một trong những đối tác tốt nhất của Washington trong mục tiêu chống lại sự trỗi dậy của Bắc Kinh. Việt Nam vừa tiếp giáp với Biển Đông, vừa tiếp giáp với Trung Quốc. Đây là quốc gia với dân số đông thứ 14 trên thế giới, quân đội lớn thứ 13, và, trong tương ứng với GDP, Việt Nam là nước có mức chi tiêu quốc phòng lớn thứ hai trong khu vực Đông Nam Á. Nền kinh tế của nước này cũng được dự báo sẽ trở thành nền kinh tế lớn thứ 17 trên thế giới trong mười năm. Và Việt Nam sẽ là một đối tác quân sự mạnh của Hoa Kỳ, và cũng đã nhiều lần thành công trong chiến tranh với kẻ thù hùng mạnh hơn và vũ trang tốt hơn.

Hoa Kỳ và Việt Nam phải thắt chặt mối quan hệ giữa hai nước. Diễn trình như vậy sẽ khẳng định thông điệp của Washington trong cam kết chống lại một Trung Quốc đang trỗi dậy, giữa một thời điểm khi các nước trong khu vực đều đang lập rào chắn, và họ cũng không chắc chắn liệu Hoa Kỳ đã đạt được mọi yếu tố cần thiết để mạnh tay với động thái gây hấn của Bắc Kinh hay chưa. Một quan hệ đối tác Mỹ-Việt mạnh mẽ cũng có thể giúp ngăn chặn quá trình bành trướng của Trung Quốc bằng cách chứng minh thái độ đối đầu này phản tác dụng đến dường nào khi nó khiến những nước cựu thù trở thành đồng minh.
_________
Alexander Benard là Giám đốc Tác nghiệp (COO) của công ty Schulze Global Investments, một công ty cổ phần tư nhân tập trung vào thị trường ở những biên giới. Paul J. Leaf là luật sư tại một công ty luật quốc tế.
__._



__._,_.___

Posted by: truc nguyen 

No comments:

Post a Comment

Featured post

Bản Tin cuối ngày-19/11/2024

My Blog List