On Tuesday, May 8, 2018 1:29 PM, Tuan Le <> wrote:
Các dân tộc ở Đài Loan
Thổ dân Bunun đảo Đài Loan đầu thế kỷ 20 (ảnh)
Nguyễn Đức Hiệp
…Một
hiện tượng xã hội đáng chú ý gần đây là một số vấn đề nghiên cứu trong phạm vi
khoa học có liên hệ đến các dân tộc ở Đài Loan đã lan ra khỏi phạm vi hạn hẹp
và trở thành một đề tài nóng bỏng trong xã hội mà trước đây ít có thể xảy ra.
Giáo sư Lâm Mã Lý, nhà di truyền học ở
bệnh viện Mckay Memorial ở Đài Bắc, đã bỏ ra nhiều năm nghiên cứu về nguồn gốc
di truyền của các bộ tộc thổ dân sống lâu đời từ thời tiền sử ở Đài Loan. Một
đề tài hầu như lúc đó không ai ở Đài Loan để ý. Sau khi công bố kết quả nghiên
cứu trên tạp chí khoa học vào năm 2000 (2), bà đã nhận được rất nhiều thư, điện
thư từ các người “Đài Loan” không phải thổ dân (Mân Nam và Hakka) muốn tìm hiểu
thêm về nguồn gốc của họ, họ không cho rằng họ có nguồn gốc từ người Hán. Giáo
sư Lâm Mã Lý từ đó chuyển trọng tâm nghiên cứu của bà sang người Minnam (Mân
Nam) và Hakka.
Sau hơn một năm nghiên cứu di truyền
trên hệ thống miễn nhiễm (Human Leucocyte Antigen, HLA) ở nhiễm sắc thể 6
(chromosome 6) qua máu của các dân Mân Nam (Hoklo), Hakka và các mẫu máu từ
nhiều nước kết hợp được trong tổ hoạt động quốc tế về HLA (International
Histocompatibility Workshop) ở Nhật năm 1998, giáo sư Lâm Mã Lý đã công bố kết
quả (3) về sự liên hệ và khoảng cách của các nhóm dân trên sơ đồ cây di truyền.
Kết quả cho thấy người Mân Nam và Hakka rất gần với người Việt, Thái và các dân
thuộc chủng mongoloid Nam Á, khác xa với người Hán thuộc chủng mongoloid Bắc Á.
Giáo sư Lâm Mã Lý cho rằng người “Đài Loan” thuộc dân tộc Mân Việt (Min Yueh)
chứ không phải dân tộc Hán, mặc dù đã có sự pha trộn trong lịch sử với người
Hán di cư từ phương Bắc.
Trong cuộc phỏng vấn trên báo Taipei
Times (Đài Bắc thời báo) (4), có câu hỏi là có phải nghiên cứu của bà đã gây
chú ý và bàn luận rất nhiều là vì nó đã thách thức chủ nghĩa Hán trung tâm cho
rằng người Hán và văn minh Hán Hoa là cội nguồn của tất cả mà ra, và do đó đã
rơi vào cuộc tranh luận chính trị về sự thống nhất với Trung quốc. Bà trả lời
là bà cũng biết trước là kết quả nghiên cứu di truyền sẽ khơi động sự bàn luận
tranh cãi, nhưng bà cũng nói rằng kết luận của nghiên cứu cũng không phải là gì
mới lạ vì trước đây hai nhà nhân chủng học nổi tiếng đã công bố lâu rồi về dân
tộc và văn minh của người Mân Việt, Hakka và Bách Việt. Kết quả của bà chỉ
chứng minh một cách khoa học thêm mà thôi. Cả hai công trình nghiên cứu này đã
được biết từ lâu trước khi có chủ đề bàn luận về thống nhất hay độc lập ở Đài
Loan. Đó là công trình nghiên cứu của Lin Hui Shaing, “The Ethnology of China”,
xuất bản năm 1937 và W. Meacham, “Origins and development of the Yueh coastal
neolithic: A microcosm of cultural change on the mainland of East Asia”, công
bố vào năm 1981. Cả hai đã đi đến cùng kết luận về nguồn gốc của dân Bách Việt.
Cũng trong cuộc phỏng vấn này, có
câu hỏi là có phải nghiên cứu của bà có mục đích chính trị không, vì hiện nay
có rất nhiều người đã dùng nghiên cứu của bà trong chính trường. Bà nói rằng
mọi người nên hiểu biết về nguồn gốc của mình. Và bà chỉ muốn tìm ra nguồn gốc
của người địa phương sống lâu đời ở Đài Loan. Bà không hiểu tại sao người Mỹ
gốc Phi lại có thể đi tìm được nguồn gốc của họ, mà người Đài Loan lại không có
thể nói được “Chúng ta là người Mân Việt cổ xưa”. Bà muốn rằng người Đài Loan
nên xem mình là người địa phương Mân Việt chứ không phải Hán từ bắc Trung quốc.
Bà nói : “Bài nghiên cứu của tôi đơn giản là chỉ để hiểu biết về nguồn gốc. Tôi
không biết gì về chính trị và không thuộc tổ chức chính trị nào”.
Để có một cái nhìn tổng quát về tình
hình Đài Loan và hiểu thêm về các dân tộc và văn hóa ở hòn đảo này, chúng ta
phải bắt đầu từ các dữ kiện lịch sử và dân tộc học mà tôi cố gắng tóm lược như
sau.
Bộ tộc Austronesian
Những người bản xứ thuộc dòng ngôn
ngữ Austronesian là những dân đã sống lâu đời ở Đài Loan từ trước thế kỷ 17 khi
các người ngoại quốc, như Hoà Lan, Tây Ban Nha và sau này từ Trung quốc bắt đầu
đến chiếm đóng và định cư. Ngôn ngữ của các bộ tộc bản xứ cũng rất đa dạng và
khác nhau, nhưng tất cả đều thuộc họ ngôn ngữ Austronesian, cùng họ với ngôn
ngữ Phi Luật Tân, Indonesia, Mã Lai và ở nhiều đảo khác trong Thái Bình Dương.
Hiện nay người thổ dân Austronesian chỉ còn có khoảng dưới 2% dân số Đài Loan
và gồm các bộ tộc sau (theo thứ tự dân số) : Amis (130,000), Paiwan (60,000),
Tayal (50,000), Bunun (38,000), Taroko (30,000), Puyuma (8,000), Rukai (8,000),
Tsu (6,000), Yami (4,000), Saisiat (4,000), Thao (250). Một số bộ tộc khác ở
đồng bằng và bờ biển trước đây đã biến mất, qua sự đồng hoá trong cộng đồng các
người Hoklo, Hakka di dân từ Trung quốc trong các thế kỷ trước. Ngôn ngữ của
các bộ tộc này chỉ còn giữ lại trong các tự điển và bài viết về họ của người
Hoà Lan, Nhật và Đài Loan sau này, và một số từ còn sót lại trong tiếng Hoklo.
Trong suốt lịch sử từ 1624, khi
người Hoà Lan đến chiếm, cho đến thời kỳ thuộc nhà Thanh, rồi thuộc Nhật Bản và
gần đây dưới chế độ Quốc dân đảng, người thổ dân thường bị phân biệt, chèn ép
trong xã hội. Có lúc họ đã nổi dậy, như năm 1930, một bộ lạc đã nổi lên chống
Nhật nhưng họ đã bị đàn áp đẫm máu. Đất đai của họ đã bị lấn chiếm và mất dần
(cách đây không lâu, có nơi đất của họ đã được dùng để chôn các chất thải
nguyên tử nguy hiểm). Năm 1984, Liên minh thổ dân Đài Loan đã được thành lập
bởi một số trí thức và các lãnh đạo các bộ tộc để bảo vệ quyền lợi và văn hoá
thổ dân. Họ đã tranh đấu trong nhiều năm cùng với đảng Dân chủ tiến bộ đối lập
chống lại các chính sách văn hóa và bất công của chính quyền. Ngày nay, quyền
lợi và văn hoá thổ dân đã được khuyến khích phát triển nhất là từ khi chính phủ
Trần Thuỷ Biển nắm quyền từ năm 2000.
Như các người Austronesian khác ở Đông
Nam Á (Mã Lai, Phi Luật Tân, Nam Dương), các bộ tộc thổ dân đều có tục ăn trầu
và xâm mình. Đặc biệt người Atayal còn xâm hình rất nhiều lên mặt. Theo truyền
thuyết của họ, lúc khởi thủy chỉ có hai anh em. Vì muốn sinh sản con người,
người em gái đã xâm hình lên mặt để che dấu gạt anh và sinh sản con cháu. Người
Rukai, trong lễ hội xuân, còn có phong tục chơi đu xích đu. Người con gái đu
xích đu, trong khi người con trai đẩy và bắt lấy. Trò chơi ở lệ hội xuân này
tương tự như trò chơi của lễ hội người Việt và chúng có nguồn gốc phồn thực.
Vì là thiểu số, hiện nay văn hoá
người thổ dân có nguy cơ biến mất khi đa số thanh niên cố gắng hoà nhập vào xã
hội Đài Loan. Trước đây vì bị phân biệt, nên đa số đã cố gắng dấu đi đặc tính
thổ dân để hoà nhập. Ngày nay với chính sách bảo vệ và phát triển văn hoá bản
xứ trong giáo dục, chính trị và kinh tế, họ đã có mặt ở mọi thành phần, tầng
lớp trong xã hội Đài Loan và hãnh diện là người có gốc tích thổ dân, dân cư đầu
tiên của nước Đài Loan. Cuối năm 2001, ở Đài Trung, nơi có nhiều thổ dân thuộc
các bộ tộc khác nhau, đã có tổ chức lễ hội về văn hóa Austronesian, với sự hiện
diện của nhiều học giả thế giới đến dự hội nghị nghiên cứu Austronesian tổ chức
cùng thời gian. Chang Hui-mei (Amei), ca sĩ nổi tiếng ở Đài Loan, là một người
gốc thổ dân bộ lạc Puyuma bản sứ đã trình diễn nhiều bài dân ca Austronesian
khai mạc liên hoan văn hoá này. Viện hàn lâm Academia Sinica cũng đã xuất bản
nhiều công trình nghiên cứu về văn hóa và con người Austronesian. Cùng với “Hiệp
hội nghiên cứu tiền sử ấn và Thái Bình dương”, Academia Sinica đã tổ chức nhiều
hội nghị quốc tế về người Austronesian, như ở Đài Trung và Đài bắc vừa rồi.
Nguồn gốc người Austronesian ở Đài Loan
Có nhiều giả thuyết (9) về nguồn gốc
của người Austronesian trên đảo Đài Loan: (a) họ là hậu duệ của người từ đảo
Ryukyu ở nam Nhật Bản đến cách đây hơn 2,000 năm (b) họ là những người Mã Lai
đi từ các đảo phương Nam lên (c) họ là hậu duệ của các dân tộc từ đất liền vùng
Quế châu (Miao, Thai,..) gần biên giới hiện nay giữa Trung quốc và Việt Nam.
Những người này cũng là tổ tiên của người “Việt” (yueh) ở Quảng Đông hiện nay.
Các địa điểm khảo cổ thời kỳ đá mới ở
Tapenkeng (gần Đài Bắc) và Fengpitou (gần Cao Hùng) cho thấy các vật tìm thấy
(rìu, tên đá, đồ gốm với trang trí hình thừng..) thuộc vào một nền văn hoá thời
đại đá mới cách đây khoảng hơn 5,000 năm. Các nền văn hoá này có liên hệ với
các di chỉ văn hoá ở đất liền phía nam Trung quốc và bắc Việt Nam. Các gốm ở
các di chỉ văn hoá trên cũng có sự liên hệ với các gốm tìm thấy ở các di chỉ ở
Phi Luật Tân và ở Sa Huỳnh. Điều này cho thấy giả thuyết thứ hai và ba ở trên
về nguồn gốc của dân Austronesian có thể là có cơ sở. Tuy khảo cổ học cho ta
thấy sự liên hệ ở thời kỳ đá mới giữa cư dân đảo Đài Loan và đất liền, nhưng về
phương diện ngôn ngữ hiện nay ta không còn tìm được cư dân nào còn lại trên đất
liền ở nam Trung quốc và bắc Việt Nam dùng tiếng nói thuộc họ ngôn ngữ
Austronesian.
Nhà khảo cổ P. Bellwood cho rằng xưa
kia ngôn ngữ Austronesian có thể đã được dùng bởi các bộ tộc ở nam Trung quốc
nhưng đã bị biến mất khi người Hán tràn xuống phía nam. Vết tích của ngôn ngữ
Austronesian có thể tìm được ở tiếng Mân Nam (Hoklo).. Nhà ngôn ngữ học
Benedict cho rằng họ ngôn ngữ Austronesian và ngôn ngữ Thai-Kadai (hiện vẫn còn
ở nam Trung quốc và bắc Việt nam) có liên hệ và cùng chung một gốc. Gần đây một
số các nhà ngôn ngữ học cũng cho thấy có sự liên hệ giữa ngôn ngữ Austronesian
và Austroasiatics (như Mon-Khmer, Việt-Mường). Họ gọi gốc chung của hai họ ngôn
ngữ này là Austric và dùng phương pháp ngôn ngữ học để cấu tạo lại các từ gốc
tiền-Austric. Ngoài phương diện ngôn ngữ, ta cũng thấy có sự liên hệ trong lịch
sử của các dân tộc nói các thứ tiếng trên ở nam Trung quốc và Việt Nam.
Từ các dữ kiện ngôn ngữ, lịch sử và
khảo cổ, nhà ngôn ngữ học R. Blust và khảo cổ học P. Bellwood đã cho rằng, bắt
nguồn từ Vân Nam, nơi xuất phát nhiều sắc tộc nói nhiều loại ngôn ngữ khác
nhau, và nhiều di chỉ văn hóa, người Austronesian xuống đến bờ biển rồi từ đó
qua Đài Loan. Họ sau này, cũng như nhiều sắc tộ khác, bị Hán hóa, chỉ để lại
vài dấu vết ngôn ngữ trong các dân ở nam Trung quốc hiện nay.
Tuy vậy, qua sự nghiên cứu về các từ cổ
Trung hoa về các sản phẩm canh nông như kê, lúa gạo, nhà ngôn ngữ L. Sagart
(10) cho rằng nguồn gốc của người Austronesian là ở phía bắc sông Dương Tử.
Những từ này có liên hệ đến các từ gốc Austronesian. Thuyết của ông đặt cơ sở
là các di chỉ trồng lúa cổ nhất tìm được hiện nay là dọc phía nam sông Dương Tử
như Hemudu, Caoxieshan (tỉnh Triết Giang) cách đây khoảng 6,500 năm và
Pentoushan (Hồ Nam) cách đây khoảng 8,000 năm.
Trái với hai thuyết trên là thuyết của
Meacham, Terrel và Soldheim (11) cho rằng người Austronesian chính là bắt nguồn
từ các đảo trong khu vực tam giác bắc Phi Luật Tân, Indonesia đến tây New
Guinea (vùng Wallacea). Họ tỏa ra các hướng khác nhau: bắc đến Đài Loan và các
đảo nam Nhật bản (Ryukyu), tây đến bờ biển Việt nam, đông về Melanesia và các
đảo ở Thái bình dương (Polynesia). Meacham cho rằng hiện nay khó có thể xác
định là nguồn gốc người Austronesian ở nam Trung quốc qua ngôn ngữ học và khảo
cổ học. Sự định tuổi về sự phát xuất các họ ngôn ngữ qua ngôn ngữ học như Blust
đã làm là không chính xác và di chỉ khảo cổ ở Đài Loan chưa đủ để kết luận là
người Austronesian từ nam Trung quốc đến Đài Loan. Soldheim cho rằng thật sự
người Austronesian đi đến bờ biển Trung quốc, Đài Loan từ phương nam (Phi Luật
Tân) và họ cũng đến bờ biển Việt Nam như ở Sa Huỳnh.
Khi kỷ thuật di truyền được bắt đầu sử
dụng vào địa hạt nhân chủng học, một số các nghiên cứu về di truyền dùng các
mẫu DNA và mitochondria DNA từ các bộ tộc Austronesian và các dân cư ở bắc, nam
Trung quốc, các đảo ở Đông Nam Á và Thái Bình dương cho thấy có sự liên hệ rất
nhiều giữa người Austronesian ở Đài Loan và các dân ở Phi Luật Tân và các cư
dân tộc phía nam Trung quốc nhiều hơn ở bắc Trung quốc (9). Tuy vậy điều này
chưa cho phép ta khẳng định hướng di dân đi từ hướng nào.
Nguồn gốc của người Austronesian vẫn
còn là đề tài tranh luận của các nhà nghiên cứu.
Thuyết “Từ Đài Loan” về nguồn gốc Austronesian ở Thái Bình
Dương
Năm 1984, nhà khảo cổ học Peter
Bellwood, trong chương trình nghiên cứu phối hợp với ngôn ngữ học đã cho rằng
các người Polynesian ở các đảo Thái Bình Dương như Tonga, Fiji, Tahiti, Tân Tây
Lan, đảo Easter… có nguồn gốc từ Đài Loan. Họ di cư từ Đài Loan chỉ cách đây
hơn 3,000 năm và nhanh chóng toả ra khắp những nơi trên. Thuyết này được phổ
thông hoá nôm na là thuyết “tàu tốc hành từ Đài Loan” (“express train from
Taiwan”).
Ông Bellwood (13) cho rằng người Austronesian
là những người trồng lúa, với kỷ thuật canh nông, từ nam Trung quốc đã qua Đài
Loan và xuống các đảo phía nam. Từ đó họ đi về phương đông đến hầu như hết tất
cả các đảo ở Thái bình dương. Họ đã thay thế các dân hái lượm địa phương cư ngụ
trước đó ở các đảo Đông Nam Á. Bellwood cũng dựa vào nghiên cứu của nhà ngôn
ngữ học R. Blust để đưa ra thuyết của ông. Blust đã xếp loại tất cả các ngôn
ngữ Austronesian, khoảng 1,200 loại, thành 10 nhóm chính. Các ngôn ngữ của các
bộ tộc Austronesian ở Đài Loan rất khác nhau và chia ra thành chín nhóm khác
nhau. Trong khi các ngôn ngữ Austronesian khác ở Đông nam Á và Thái Bình dương
nằm vào chung một nhóm. Vì thế Blust cho rằng các ngôn ngữ ở Đài Loan là thuộc
loại xưa nhất, và các ngôn ngữ Austronesian khác bắt nguồn từ Đài Loan.
Bằng chứng khảo cổ học là các loại gốm
gọi là gốm Lapita được tìm thấy khắp các đảo ở Thái Bình dương, từ quần đảo
Bismark, đảo Vanuatu, Caledonia đến Fiji, Tonga, Samoa. Những người Lapita này
chính là tổ tiên của những người Polynesia nói tiếng Austronesian ở Thái Bình
dương hiện nay. Bellwood cho rằng người Lapita phát xuất từ Đài Loan.
Vấn đề người Lapita từ đâu đến không
đơn giản và đã có nhiều nhà nghiên cứu tranh luận. Nhà nhân chủng học Terrel
cho rằng thật sự tổ tiên người Lapita là từ Melanesia hơn là từ người
Austronesian từ Đài Loan hay Phi Luật Tân đến. Đồ gốm Lapita cổ nhất là được
tìm thấy ở quần đảo Bismark, xứ sở của người Melanesia, hơn gốm tìm được ở Phi
Luật Tân, mặc dầu chúng có liên hệ đến gốm Lapita.. Theo ông Terrel, văn hóa
người Lapita là sự tổng hợp văn hóa của người Austronesian đến trong nhiều đợt
và của người Melanesia bản sứ. Thuyết của ông Terrel còn được gọi nôm na là
“thuyết bờ rối” (“entagled bank hypothesis”)
Thuyết “tàu tốc hành” của Bellwood,
Blust và thuyết “bờ rối” của Terrel là hai mô hình nổi bật khác nhau nhất. Các
nhà nghiên cứu đã chia ra hai trường phái dựa vào hai mô hình khác nhau trên.
Thuyết “tàu tốc hành” của Bellwood và
Blust được nhiều người chấp nhận trong một thời gian lâu trong các năm 1980 và
đầu thập niên 1990. Khi các nhà di truyền học nhảy vào cuộc tranh luận, lúc đầu
đã có các nghiên cứu di truyền mtDNA với các kết quả đầu tiên có vẻ là thuyết
Bellwood và Blust đúng. Nhưng sau này, các kết quả di truyền ở nhiểm sắc thể Y
và mitochondria mtDNA cho thấy giả thuyết trên của Bellwood là không hoàn toàn
đúng.
Di truyền ở nhiểm sắc thể Y cho thấy
người Polynesia có rất ít sự đa dạng, chứng tỏ họ xuất thân từ một số ít người
đàn ông. Mặc dầu ở mtDNA và nhiểm sắc thể Y, có các vết tích và sự liên hệ một
ít qua các điểm (marker) với những người Austronesian và người ở nam Trung quốc
và Đông Nam Á. Nhưng sự liên hệ di truyền nhiều nhất là với các người
Melanesian ở New Guinea và Austronesian ở Wallacia gần New Guinea (11)(12).
Thuyết Bellwood đúng một phần nhưng mô hình Terrel có cơ sở hơn. Vì thế ông
Oppenheimer (11) đã gọi nguồn gốc và di dân của người Polynesia đến Thái Bình
dương là “con tàu chậm” (“slow boat”).
Người Hoklo (福佬)
“Hoklo”, từ cổ xưa gốc địa phương
nay được dùng để chỉ chung giống người dân tộc và ngôn ngữ vùng Phúc Kiến thay
vì dùng từ Phúc Kiến như trước đây thường xử dụng để chỉ người từ tỉnh địa
phương Phúc Kiến trong một nước Trung quốc rộng lớn. Các từ thường dùng khác
như Hokkien, Minnan (Mân Nam), Min (Mân), hay Đài Loan cũng đã được dùng để chỉ
dân tộc này. Nay thì từ “Hoklo” bản địa có khuynh hướng được dùng nhiều (nhất
là trong giới hàn lâm nghiên cứu) vì nó thống nhất cho một giống dân trong dân
tộc học, không mang màu sắc chính trị, thích hợp hơn là dùng danh từ về vị trí
địa lý của một tỉnh. Người Hoklo không những cư trú ở Phúc Kiến mà còn có mặt ở
nhiều nơi như Hải Nam, Đài Loan và ở nhiều nước khác trong khu vực Đông Nam Á
do truyền thống đi biển của họ. Ở Đài Loan, hiện nay 70% dân số là người Hoklo.
Ngôn ngữ người Hoklo có nguồn gốc cổ
xưa ở Nam Trung quốc. Theo nhà ngôn ngữ học Norman và Mei Tsu Lin (5)(6) thì
tiếng Hoklo (Mân), Hakka và Quảng Đông có cùng nguồn gốc. Chúng xuất phát từ
các bộ tộc bách Việt phi Hán sống ở phía Nam sông Dương Tử. Những ngôn ngữ này
có các thành phần gốc Thái cổ, Austronesian và Austroasiatic ở tầng ngôn ngữ
dưới tầng pha trộn với tiếng Hán ở trên. Thành phần Austronesian và Thai
(Austro-Thai) có trội hơn thành phần Austroasiatics, nhưng cả ba đều có hiện
diện trong các ngôn ngữ này. Họ ngôn ngữ Austroasiatics, như ta biết, gồm có
các ngôn ngữ Mon-Khmer, Việt, Munda. Điều này cho thấy là các tộc người nói
tiếng Austroasiatics đã có mặt ở nam Trung quốc từ lâu đời, trước thời kỳ nhà
Tần\- Hán (6). Hiện nay trong ngôn ngữ Mân Nam Hoklo, ta vẫn còn tìm thấy có
các sự liên hệ với ngôn ngữ Việt thuộc họ Austroasiatics qua các từ gốc (6).
Một vài thí dụ về các từ Hoklo với các từ trong tiếng Việt như:
vat[bat4] – Việt : biết, Bahnar : băt.
gnial[kian2] – Việt : con, Khmer : koun.
daam[tam5] – Việt : đẫm (ướt).
daanggi[tang5ki1] – Việt : đồng (lên), Proto-Mân : dung, , Mon : dong.
doh[toh4] – Việt : đâu (ở).
gnial[kian2] – Việt : con, Khmer : koun.
daam[tam5] – Việt : đẫm (ướt).
daanggi[tang5ki1] – Việt : đồng (lên), Proto-Mân : dung, , Mon : dong.
doh[toh4] – Việt : đâu (ở).
và một số từ có nguồn gốc
austroasiatics-austronesian (theo thuyết Austric) như:
dehh[teh4]\- Việt : đè, Proto-Malay :
tedes.
qiul [giu2] – Việt : giật (kéo), Quảng Đông : jau1, proto-Malay : guyud
lut[lut4] – Việt : lột, Hakka : lôụt, Quảng Đông : led1, Indonesian : lucut, Malay : luchut, Hawai Polysnesian : lu.
lerng[leng7] – Việt : lõng, proto-Malay : luan.
qiul [giu2] – Việt : giật (kéo), Quảng Đông : jau1, proto-Malay : guyud
lut[lut4] – Việt : lột, Hakka : lôụt, Quảng Đông : led1, Indonesian : lucut, Malay : luchut, Hawai Polysnesian : lu.
lerng[leng7] – Việt : lõng, proto-Malay : luan.
Ngoài ra, theo tôi một số các từ Hoklo
sau đây cũng có gốc chung (cognates) với các từ Việt:
bou[po*1] – Việt : bố (cha)
voul[bo*2] – Việt : bu (vợ)
za[cha1] – Việt : ta (người), Proto-Malay : tau, cau.
dẫn tới từ Hoklo, zabou nghĩa là người đàn ông và zavoul nghĩa là người đàn bà.
voul[bo*2] – Việt : bu (vợ)
za[cha1] – Việt : ta (người), Proto-Malay : tau, cau.
dẫn tới từ Hoklo, zabou nghĩa là người đàn ông và zavoul nghĩa là người đàn bà.
Ngoài sự liên hệ về ngôn ngữ giữa người
Hoklo (Mân Việt) và người Việt, trong lịch sử, ta cũng được biết là tổ tiên của
nhà Trần, một triều đại rực rỡ đượm văn hoá Việt ở Việt Nam, đã đi từ Phúc Kiến
(Mân) theo đường biển đến định cư ở Việt Nam vào thế kỷ 13. Họ sống về nghề
đánh cá dọc theo bờ biển nam Trung quốc.
Người Hoklo ở Đài Loan sau bao thế kỷ
chung sống và hợp chủng với nhiều bộ tộc bản xứ ở vùng thấp và đồng bằng đã dẫn
đến sự biến mất của một số các bộ tộc. Qua quá trình giao lưu này, một số ngôn
từ Austronesian đã được thu nhận và ngôn ngữ Hoklo ở Đài Loan có nét địa phương
khác với ngon ngữ Hoklo ở tỉnh Phúc Kiến trong lục địa. Ngôn ngữ Hoklo ở Đài
Loan nay được gọi là Đài ngữ.
Người Hẹ hay Khách trú (Hakka) (客家)
Từ “Hakka” chữ Hán có nghĩa là “khách
trú”, do người Quảng Đông dùng để chỉ các người di dân xuống địa phận vùng bắc
Quảng Đông và nam Phúc Kiến hiện nay. Thật sự người Hakka đã có mặt từ ngàn năm
trước ở vùng phía nam sông Dương Tử, chủ yếu ở khu vực nam tỉnh Giang Tây, giáp
giới với Phúc Kiến. Vì hoàn cảnh địa lý và lịch sử họ đã di dân xuống Quảng
Đông. Hiện nay chúng ta không rõ lịch sử và khi nào từ này đã được dùng, chỉ
biết là người Quảng Đông đã đối xử phân biệt với họ, cho họ là dân phi Hán
thuộc một loại dân tộc mọi man di, như các tộc Thái, Choang (Zhuang) hay Mèo
(Miao)\, ở miền núi hoang dã di dân vào ở các khu vực Hán. Thật sự thì cả người
Quảng Đông cũng không phải nòi Hán, nhưng vì bị Hán hoá quá lâu, nên trong cộng
đồng của họ đã không còn gìn giữ lại được trong trí nhớ di sản chung là trước
kia họ thuộc chủng phi Hán.
Vì bị coi như người ngoài đến lấn
chiếm, và bị đối xử phân biệt nên một số người Hakka đã cũng tự cho họ là người
Hán từ bắc Trung quốc đi xuống. Quyển sách cổ điển nói về nguồn gốc của người
Hakka là của giáo sư Lo Hiong Lim, xuất bản năm 1933 (“An introduction to the
study of the Hakkas: its ethnic, historical and cultural aspects”). Ông chủ yếu
dựa vào gia phả cho rằng người Hakka là từ bắc Trung Quốc đã di dân xuống
phương nam qua nhiều đợt vì quê hương của họ đã bị các rợ phương bắc xâm lăng.
Ngày nay thì nhiều công trình nghiên
cứu khảo cổ, ngôn ngữ học và di truyền học đã cho thấy là thuyết của ông Lo
không đúng. Ngay cả tư liệu gia phả cũng không chính xác và có nhiều sai lầm.
Nhà ngôn ngữ học J. Norman cho rằng tiếng Hakka, Mân (Min) và Quảng Đông “Việt”
(Yue) có cùng một nguồn trong lịch sử, đã hiện diện ở Nam Trung quốc từ trước
thời Hán, mà ông gọi chung là tiếng cổ nam Trung quốc (Old southern Chinese)
(5).
Nhà ngôn ngữ học Laurent Sagart trong
một nghiên cứu mới đây (2002) về nguồn gốc tiếng Hakka, đã cho thấy là ngôn ngữ
này có nguồn gốc ở phía nam Trung quốc, với lớp tầng cổ nhất thuộc họ ngôn ngữ
Mèo – Dao (Miao-Yao), hay còn gọi là Hmong-Mien (4). Ngôn ngữ Hakka cũng rất
gần với ngôn ngữ của người Gan (Cám) cư ngụ dọc lưu vực sông Cám giang. Hiện
nay ở vài khu vực các tỉnh Giang Tây (Jianxi), Triết Giang, Phúc Kiến, Quảng
Đông, người She, thuộc họ ngôn ngữ Hmong-Mien vẫn còn hiện diện. Ông Sagart cho
rằng chính họ là tổ tiên của người Hakka và Gan, sau này đã bị Hán hoá dần từ
thời Tống. Trước đây, nhà ngôn ngữ học Haudricourt cũng đã cho rằng tiếng Quảng
Đông và Hakka có nguồn gốc từ tiếng Thái và Mèo-Dao, sau khi trãi qua các quá
trình Hán hoá lâu dài trong lịch sử (7).
Giáo sư Fong Hok Ka, trong sách nghiên
cứu về người Hakka xuất bản ở Trung quốc năm 1994 (“Investigating in depth
about the origin of Hakka”), đã dùng các tư liệu lịch sử và khảo cổ tìm được ở
các vùng của người Hakka trước đây cư ngụ. Ông cho thấy đã có một nền văn minh
rất cao hiện diện trước lâu khi thời kỳ nhà Tần đánh chiếm các dân tộc phương
Nam. Từ đó (221BC) bắt đầu có quá trình Hán hoá cho đến các giai đoạn sau thời
Bắc triều – Nam triều (589AD), khi nhóm tiền\-Hakka (proto-Hakka) bắt đầu được
thành lập và phát triển.
Nói chung các công trình nghiên cứu của
ông Norman, Sagart và Fong là có cơ sở hơn hết về nguồn gốc con người và ngôn
ngữ Hakka.
Sau người Hoklo, người Hakka bắt đầu di
dân vào đảo Đài Loan vào khoảng thế kỷ 18, chủ yếu là dưới triều Thanh. Hiện
nay, dân số người Hakka có khoảng 3 triệu, tức khoảng 15% dân số Đài Loan, đứng
hàng thứ 2 sau dân Hoklo.
Vài nét về lịch sử hiện đại Đài Loan
(a) Đài Loan đã có người thổ dân
Austronesian sinh sống từ lâu đời. Tài liệu xưa nhất ở Trung quốc đề cập đến
Đài Loan là vào năm 230 AD, nói về một số người chạy loạn từ bờ biển Phúc Kiến,
Quảng Đông đến trú ngụ tại đảo. Một tài liệu địa lý khác ở thế kỷ thứ 3 có nói
về các bộ tộc sống trên đảo (9). Họ có phong tục và cách sống rất khác nhau,
chứ không phải thuần nhất.
Từ cuối thế kỷ 16 đến năm 1624, chỉ có
một số rất ít người từ lục địa sang sinh sống dọc theo bờ biển phía bắc. Chủ
yếu họ sống ngoài vòng kiểm soát của triều đình Trung quốc. Trong đó không ít
là sống theo nghề cướp biển. Thỉnh thoảng chỉ có một số người bị đắm tàu trôi
dạt vào đảo. Họa hoằn lắm là có các thương thuyền của người Bồ Đào Nha, Hòa Lan
và các nước tạt qua trên đường hàng hải buôn bán với Nhật và Trung quốc. Người
Bồ Đào Nha gọi đảo này là Formosa (“hòn đảo đẹp”). Thổ dân Austronesian trên
đảo cũng có tiếng là hung dữ, nhất là ở phía sâu trong đảo. Thêm nữa vì không
có cảng hay thành phố mà chỉ có các làng mạc thưa thớt dọc biển, nên không ai
để ý đến.
Với sự cạnh tranh càng ngày càng gia
tăng của các nước Tây phương trong thị trường thương mại hàng hải với Nhật và
Trung quốc. Người Hoà Lan đầu tiên chiếm các đảo nhỏ ở eo biển Đài Loan như
quần đảo Pescadores và bắt đầu từ năm 1624 đến lập các cơ sở ở bờ biển phía Tây
Đài Loan. Người Tây ban Nha cũng đến phía bắc đảo để chiếm đóng và lập các căn
cứ làm thuộc địa từ năm 1626. Người thổ dân bị lấn chiếm và không chống trả
nổi. Chiến tranh giữa Hoà Lan và Tây Ban Nha diễn ra liên tục trên đảo. Trong
thời gian này, người Hoa từ lục địa cũng bắt đầu di dân sang ở một vài nơi phía
Tây và Nam trên đảo.
Năm 1642, cuối cùng người Tây Ban Nha
đã bị người Hoà Lan đánh bại, các cơ sở, đồn thiết bị ở phía bắc đảo đã rơi vào
tay người Hoà Lan. Formosa trở thành thuộc địa và là cơ sở thương mại có lợi
nhuận lớn thứ nhì sau Nhật bản của công ty Đông ấn Hoà Lan. Trong lúc đó người
Hoa từ lục địa tiếp tục di dân qua đảo Formosa lập nghiệp ở dọc bờ biển hẻo
lánh phía Tây. Người thổ dân nay chịu 2 sức ép của làn sóng xâm nhập. Từ Đài
Loan, Công ty Đông ấn xuất khẩu đường, các sản phẩm từ nai thú rừng, và là trạm
chuyển tiếp cho đồ sứ Trung quốc. Các bộ lạc ở vùng thấp và đồng bằng bị cạnh
tranh sinh sống và bị đẩy lùi từ sự phát triển nông nghiệp lớn dần của các
người di dân từ lục địa sang. Dĩ nhiên lâu dần sự việc cũng đã dẫn đến sự đụng
độ không tránh khỏi giữa người di dân Hoa lục với người Hoà Lan. Nhà Minh bắt
đầu gởi người và chiến thuyền đến để can thiệp. Chiến tranh xảy ra khốc liệt
trong nhiều năm. Sau cùng vào năm 1662, người Hoà Lan vì giới hạn nhân lực và
thực lực đã bị tướng nhà Minh Koxinga (Jeng Cheng Gung) đánh bại.. Đây là lần
đầu tiên Trung quốc thiết lập sự cai trị ở đảo Đài Loan.
Khi nhà Minh bị mất nước vào năm
1683, người Mãn Châu thiết lập triều nhà Thanh ở Trung quốc. Tàn quân của nhà
Minh đã phải lánh nạn ở bờ biển phía Nam gần Đài Loan. Một số cũng đi xa hơn
nữa về phương Nam đến Việt Nam và được chúa Nguyễn cho phép định cư ở các vùng
đất mới, như miền Nam phía vùng đồng bằng sông cửu Long và Hà Tiên. Ở Trung
quốc, một số hội kín “phản Thanh phục Minh” như Thiên Địa hội được thành lập.
Vùng bờ biển Trung quốc và Đài Loan trở thành nơi cứ địa của Thiên địa hội. Lâu
ngày tàn quân và Thiên địa hội đã dần dần trở thành cướp biển quấy phá hàng hải
thương mại nhà Thanh ở eo biển Đài Loan. Sau một thời gian, nhà Thanh tuy dẹp
được cướp biển, nhưng ở Đài Loan họ chỉ kiểm soát được một vài nơi có người Hoa
định cư dọc bờ biển. Còn lại đa số là ngoài vòng kiểm soát. Nhà Thanh vì thế
chỉ xem Đài Loan là một vùng biên giới để giữ an ninh, không coi đó là nơi quan
trọng và cần thiết. Nhà Thanh dùng chính sách “chia rẽ và cai trị” rất hiệu
nghiệm. Họ dùng người bản sứ Austronesian để đàn áp các cuộc nổi loạn thường
xảy ra của người Hoa di dân vẫn còn thần phục nhà Minh..
Năm 1895, nhà Thanh thua trận trong
chiến tranh với Nhật. Một trong những điều kiện thương thuyết là Nhật đòi nhà
Thanh phải nhường lại Đài Loan. Vì không coi là nơi quan trọng thuộc lãnh thổ
Trung quốc, nhà Thanh đã đồng ý với Hoà ước Shimonoseki kết thúc cuộc chiến
tranh Trung-Nhật. Đài Loan trở thành thuộc địa, trực thuộc Nhật từ năm 1895 đến
1945. Trong 50 năm dưới chế độ thực dân Nhật, Đài Loan đã trãi qua một sự thay
đổi khá sâu rộng trong các địa hạt văn hoá, xã hội, kinh tế và chính trị. Tiếng
Nhật và văn hoá Nhật được áp dụng trong toàn xã hội. Văn hoá bản sứ Hoa, Hoklo
và Austronesian không đươc phát triển. Họ cai trị Đài Loan rất chặt chẽ. Ngay
cả vào sâu trong nội địa, vùng núi rừng để chế ngự các bộ tộc Austronesian miền
núi, để đặt họ vào vòng kiểm soát của người Nhật.. Kỷ nghệ được phát triển khai
thác tận lực tài nguyên thiên nhiên như thuỷ điện, nhôm, hoá học…. Đài Loan sau
này đóng góp nhiều vào bộ máy chiến tranh của Nhật trong thế chiến thứ hai.
Dưới sự cai trị của Nhật, một cuộc nổi dậy lớn nhất chống Nhật, do một bộ tộc
người Austronesian lảnh đạo, đã xảy ra vào năm 1930. Để trả thù, chính quyền
Nhật đã đàn áp, giết và bắt đi hầu hết các người của bộ tộc Austronesian này
trong cuộc nổi loạn trên. Trong lịch sử Đài Loan, ngay cả Quốc dân đảng đã đề
cao biến cố nổi dậy quan trọng này của các “đồng bào dân tộc”.
Trong thế chiến thứ hai, Trung quốc
đánh nhau với Nhật ở mặt trận châu Á, Thái bình dương và vì thế đứng về phía
Đồng minh chống lại trục phát xít Đức-Nhật-Ý. Trong hội nghị của ba cường quốc
đồng minh (Mỹ, Anh, và Trung quốc) về mặt trận Thái Bình dương ở Cairo vào năm
1943, Đồng minh đã đồng ý là sẽ giao Đài Loan cho Trung quốc (Quốc dân đảng)
khi Nhật bị bại trận sau chiến tranh.
Biến cố 28/2 – Thảm sát ở Đài Bắc và khắp Đài Loan
Cuối năm 1945, sau khi Nhật đã đầu
hàng đồng minh, chính phủ Trung quốc của Quốc dân đảng gởi người và quân đội
đến Đài Loan để giải giới và thiết lập chính quyền mới trên đảo. Họ đến từ lục
địa nhưng nắm hết quyền trong chính phủ, quân đội. Từ sự cách biệt gần 100 năm
trong lịch sử trong thời kỳ lệ thuộc Nhật và trước đó trong thời nhà Thanh, lối
sống xã hội của người Đài Loan bản xứ đã khác nhiều với tập tục suy nghĩ nếp
sống của những người tràn qua từ đất liền.
Điều này bắt đầu dẫn tới những bất đồng
và căng thẳng, nhất là sự hối lộ, tham nhũng, vơ vét, áp bức dân địa phương của
chính quyền Quốc dân đảng trong các năm đầu khi họ vừa đến Đài Loan. Người dân
bản xứ không quen về tệ nạn tham nhũng, vơ vét khi còn dưới thời Nhật cai trị,
nên rất ta oán. Họ đã biểu tình phản đối bắt đầu từ Đài Bắc rồi lan ra khắp Đài
Loan. Quốc dân đảng đã phản ứng lại bằng cách dạy dân địa phương một bài học,
như một số tướng và nhân vật quốc dân đảng đã tuyên bố . Trong ngày 28/2/1947,
quân đội đã nổ súng vào đoàn biểu tình và mở chiến dịch càn quét tấn công vào
các dân bản xứ, hậu quả thật khốc liệt, hơn 20,000 người đã bị thảm sát. Thiết
quân luật đã được ban hành và áp dụng trên toàn lãnh thổ. Biến cố này là một
bản lề quan trọng nhất trong lịch sử cận đại Đài Loan.
Năm 1949, chính phủ Quốc dân đảng ở
Trung quốc sau khi bị thua trận trong cuộc nội chiến đã phải chạy ra đảo Đài
Loan củng cố. Thiết quân luật được áp dụng chặc chẽ hơn, viện cớ tình trạng
chiến tranh với đảng cộng sản ở Trung quốc lục địa. Thiết quân luật chỉ chấm
dứt sau này vào năm 1987. Biến cố ngày 22/8/1947 có ảnh hưởng sâu rộng và đã
nằm sâu trong tiềm thức của dân Đài Loan. Mặc dù nó đã bị các chính phủ Quốc
dân đảng che đậy và cấm được bàn hay đề cập đến từ lúc đó cho đến cuối thập
niên 1980s, nhiều trí thức bản xứ và ngay cả một số trong Quốc dân đảng ly khai
đã đặt lại vấn đề và từ đó thành lập đảng Dân chủ Tiến bộ đối lập với chính
quyền..
Năm 1972, Đài Loan đã lỡ một cơ hội
trở thành một nước độc lập gia nhập vào Liên Hiệp quốc. Trong thời điểm này Mỹ
đang hoà hoãn với Trung hoa lục địa (Cộng hoà nhân dân Trung quốc). Liên hiệp
quốc cũng vừa công nhận chính phủ Cộng hoà nhân dân Trung quốc (PRC) đại diện
cho Trung quốc ở Liên hiệp quốc, thay thế chính phủ Cộng hoà Trung quốc (ROC)
của Quốc dân đảng ở Đài Loan. Đài Loan lúc đó có thể từ bỏ chính sách là mình
có chủ quyền ở Trung hoa lục địa và là thực thể đại diện cho tất cả mọi người
dân Trung hoa. Thay vào đó, Đài Loan nên tuyên bố độc lập xin vào Liên Hiệp quốc
với tư cách một nước mới. Đây cũng là hành động mà Mỹ khuyên Đài Loan nên theo
trong cơ hội này lúc Mỹ thương lượng với Trung quốc, nhưng chính phủ Đài Loan
đã từ chối và tiếp tục theo đuổi đòi chủ quyền cho cả Trung hoa lục địa. Đây là
một sai lầm chiến lược lớn mà sau này Đài Loan hối hận. Nhiều người đã đặt lại
vấn đề là tại sao lại không có hai hoặc ba nước nói tiếng Hoa trong Liên Hiệp
Quốc, cũng như Liên Sô trước đây đã có Ukraine và Bylorussia hiện diện trong tổ
chức này. Chính sách sau này của chính phủ Quốc dân đảng Đài Loan là cố gắng
thiết lập được quan hệ ngoại giao với mọi nước (đa số là các nước nhỏ ở Trung
Mỹ và Thái Bình dương) và xin được vào các tổ chức quốc tế như Y tế thế giới
(WHO), văn hoá (UNESCO), thương mại (WTO)..
Từ lúc đảng Dân chủ tiến bộ đối lập
được thành lập, đấu tranh về đường lối giữa Quốc Dân Đảng và đảng Dân chủ diễn
ra rất gay gắt trong suốt thập niên 1980s. Đến cuối thập niên 1990s thì người
địa phương Đài Loan đã thực sự thắng lợi, với bản sắc Đài Loan được đặt là nền tảng
cho mọi chính sách đối ngoại và đối nội. Ngay cả Quốc Dân đảng đã chọn người
địa phương Đài Loan, ông Lý Đăng Huy, là vị tổng thống với chính sách mới ở
giai đoạn cuối cùng trước khi đảng Dân chủ lên nắm quyền năm 2000, mở đầu cho
một kỷ nguyên và một thế kỷ mới.
Sự hình thành và phát huy văn hoá truyền thống bản địa của các dân
tộc ở Đài Loan
Tôi đến Đài Trung (dọc bờ biển hướng
Tây, cách Đài Bắc 150km phía Nam) vào tháng 6 năm 2000, một tháng sau khi ông
Trần Thuỷ Biển nhậm chức tổng thống. Trung quốc vẫn còn dàn hoả tiển hướng về
Đài Loan ngăn cách qua một eo biển nhỏ hẹp. Dân chúng tuy vậy rất bình tĩnh, tự
tin và không còn sợ hải như trước đây. Mặc dầu thị trường chứng khoáng chưa hồi
phục đến mức bình thường như hồi trước lúc khủng hoảng, hoạt động kinh tế đã
trở lại như trước, các trung tâm thương mại rất náo nhiệt trừ các trung tâm của
các công ty Nhật có rất nhiều ở Đài Loan, như Daimaru,.. thì vẫn vắng khách như
xưa vì giá rất cao. Thành phố Đài Trung là thành phố lớn mà dân Hoklo hầu như
chiếm gần hết, với một số ít còn lại là người các dân tộc thổ dân Austronesian.
Thành phần dân ở Đài Loan gồm khoảng
15% là người Hakka (khách trú), 70% là người Phúc Kiến, 2% là người bản xứ thổ
dân và 13% là người từ các vùng ở Trung Hoa lục điạ đến gần đây. Mặc dầu không
phải là đa số, nhưng người từ Trung Hoa lục địa đã chiếm lĩnh các vị trí quan
trọng trong chính phủ, quân đội. Các hoạt động kinh tế phần lớn nằm trong tay
họ, trong số đó có một số công ty có sự liên hệ rất mật thiết với Quốc dân
đảng. Ngay Quốc dân đảng cũng có những công ty riêng rất lớn với nguồn tài
chánh và lợi nhuận khổng lồ. Tình trạng trên kéo dài trong hơn 40 năm, cho đến
khi bắc đầu từ năm 1988, đảng Dân chủ Tiến bộ (DPP) đối lập được thành lập.
Đảng Dân chủ tiến bộ đòi hỏi có sự công bằng và đấu tranh dành lại quyền chính
trị với khuynh hướng độc lập, từ bỏ là đại diện Trung quốc để lấy lại Hoa lục
của chính thể Đài Loan từ khi Quốc dân đảng thua chạy qua tá túc ở Đài Loan.
Mặc dầu có nhiều khó khăn và trở ngại do chính phủ Quốc dân đảng lập ra, dần
dần tiếng nói của các dân bản sứ đã được thể hiện. Trong những năm cuối của
thập niên 1980 và đầu 1990, sự đối lập của đảng Dân chủ Tiến bộ và Quốc dân
đảng về khuynh hướng và chính sách không những gay gắt trên chính trường (nhiều
khi đưa đến xô xát bạo động trong quốc hội, các nơi diễn thuyết công cộng giữa
hai phe mà chúng ta thường thấy trên truyền hình) mà còn được thể hiện ở dân
chúng tuỳ theo dân thuộc thành phần nào, bản xứ hay không bản xứ.
Năm 1996, ông Trần Thuỷ Biển được bầu
làm thị trưởng thành phố Đài Bắc. Trong thời gian làm thị trưởng, ông đã đổi
tên đại lộ trước dinh tổng thống từ “Đại lộ Tưởng Giới Thạch muôn năm” thành
“Đường Ketagalan”. Ketagalan là tên một bộ lạc thổ dân Austronesian cư ngụ vùng
xung quanh Đài Bắc đã bị tuyệt chủng từ lâu sau khi họ đã bị đồng hoá vào xã
hội Đài Loan. Mặc dù không phải là người thổ dân, nhưng ông Trần Thuỷ Biển đã
tích cực ủng hộ và phát triển quyền lợi và văn hoá thổ dân khắp Đài Bắc.
Quan trọng hơn, ông đã lập ra một
viện bảo tàng giữa một công viên lớn trong trung tâm thành phố tưởng niệm biến
cố ngày 28/2/1947. Công viên được đổi tên là công viên hoà bình 282. Tôi có ghé
thăm công viên và viện bảo tàng trong dịp viếng Đài Bắc năm 2000. Thật là cảm
động khi thấy những hình ảnh, thơ từ, áo của các nạn nhân mang những lổ đạn,
sách, báo chí, chứng từ, nói lên sự bất nhẫn qua hình ảnh của quân đội Tưởng
Giới Thạch bắn giết hơn 20,000 người… Viện bảo tàng mang một biểu tượng với
dòng chữ to “confused identity leads to tragedy – Taiwan has to know its past
tragic event in 22/8/1947” (không rõ cá tính chúng ta là ai sẽ dẫn đến thảm
kịch – Đài Loan phải biết quá khứ lịch sử của biến cố ngày 22/8/1997”. Dĩ nhiên
viện bảo tàng đã bị chính phủ Quốc dân đảng lúc bấy giờ rất chống đối và lên
án. Nhưng cũng từ lúc ấy, đa số người Đài Loan bản sứ (Hakka và Hoklo) đã bắt
đầu nhận ra, ý thức được quyền độc lập và tự hào về sự khác biệt của văn hoá,
lịch sử, ngôn ngữ của họ với văn hoá quan thoại của Quốc dân đảng và của Trung
Hoa lục địa.
Ngay cả trong Quốc dân đảng, nhiều
người (nhất là các đảng viên gốc người bản xứ), đã đòi hỏi phải có cải tổ, thay
đổi chính sách để thể hiện được nguyện vọng của dân một cách thực tế và áp dụng
được trong tình hình mới. Nó phải thích với khuynh hướng và trào lưu dân chủ mà
quần chúng đòi hỏi. Lý Đăng Huy, vị tổng thống Quốc dân đảng cuối cùng trước
khi Trần Thuỷ Biện lên thay, là người gốc bản xứ, đã có những chính sách cởi
mở. Chính ông cũng có những hoài bảo độc lập giống như đảng Dân chủ Tiến bộ.
Điều này đã làm cho chính quyền Trung quốc rất tức giận và hằng học, làm nhiều
khó khăn cho ông Lý Đăng Huy, ngay cả khi ông không còn trong chính trường và
là một công dân bình thường như hiện nay. Thí dụ như khi ông dự định đi đến
viếng các nước như Anh, Mỹ, và gần đây Nhật với tư cách cá nhân riêng tư, chính
quyền Trung quốc cũng đã gây sức ép đến các nước sở tại để không cho ông thi
thực nhập cảnh (visa). Ai nói là thù sẽ phai đi theo thời gian ?.
Để có thể phân biệt và tạo ra được
sự khác nhau về xã hội, văn hoá giữa Đài Loan và Trung quốc, Đài Loan từ Lý
Đăng Huy đến Trần Thuỷ Biển đã khuyến khích phát triển và quảng bá rộng rãi văn
hoá của những dân tộc thổ dân trong văn hoá Đài Loan. Ý thức về sự quan trọng
của nền văn hoá thổ dân có nguồn gốc Mã Lai (Malayo-Indonesian) vào sự đóng góp
chung với các văn hoá Hakka và Phúc Kiến để tạo dựng lên một nền văn hoá khác
biệt với văn hoá Hán Trung Hoa. Điều này đã được nhận diện và chấp nhận là một
yếu tố quan trọng bật nhất đặt nền tảng cho sự thành hình một đặc tính
(identity) mới ở Đài Loan. Thêm nữa mặc dầu Đài Loan đã có thời gian ngắn chỉ
khoảng hơn 80 năm là một phần của Nhật Bản, trong thời kỳ Nhật cai trị. Nhưng
ảnh hưởng văn hoá Nhật đã có thể hiện một phần trong văn hoá và con người Đài
Loan. Đài Loan và Nhật hiện nay có quan hệ kinh tế và văn hóa khá sâu rộng.
Đặc tính riêng biệt là điều kiện
tiên quyết cho sự khởi đầu thành lập một quốc gia của một quần thể với một văn
hoá riêng. Quá trình văn hoá, tư tưởng như nói trên xảy ra ở Đài Loan trong sự
tiến đến tạo thành một nước có bản sắc riêng cũng mang mán tựa như quá trình mà
người Việt đã trãi qua trong thời kỳ Bắc thuộc. Trong quá trình này, nguy cơ
văn hoá bản xứ có thể bị Hán hoá và tiêu diệt, trước khi có sự độc lập trong
thế kỷ thứ 10 là rất cao, nếu không nhờ có văn hóa làng xã thuần Việt ở nông
thôn được giữ vững.
Sau bao nhiêu năm dưới các chính phủ
Quốc dân đảng, ngôn ngữ Hakka, Hoklo và các thổ ngữ bị cấm dùng trong nền giáo
dục và các công sở, thay thế bởi ngôn ngữ chính thức Quan thoại (mandarin).
Trước đây, một số trí thức Hakka và Hoklo đã cố gắng giữ gìn tiếng nói của họ
bằng nhiều phương tiện. Một trong những phương tiện là sáng tạo ra chữ viết mới
dùng chữ Hán tạo ra loại chữ gọi là Koa-a-chheh (歌仔冊) vào thế kỷ 17 dưới thời kỳ thuộc nhà Thanh. Cấu tạo loại chữ này cũng tương tự một phần như chữ Nôm (Việt Nam),
hoặc dùng chữ âm chữ Hán để chỉ chữ địa phương hoặc dùng nghĩa chữ Hán cho âm
địa phương. Tuy nhiên nó chưa được thống nhất tiêu chuẩn và có sự tuỳ tiện của
người viết. Đến cuối thế kỷ 19, thì loại chữ viết này biến mất dần. Đầu thế kỷ
20, chữ cái Latin cũng đã dùng để thể hiện tiếng nói địa phương (tương tự như
chữ quốc ngữ sau này ở Việt nam). Nhưng hệ thống chữ này, gọi là Poe-oe-ji (白話字), đã không thành công , một phần là do chính sách của Quốc dân đảng. Chính sách của Quốc dân đảng là phát triển chính
thức chữ Hán Quan thoại để nó trở thành phổ thông trong đời sống xã hội, chính
trị. Chữ mới này có thể gây nguy cơ phổ biến cho văn hoá địa phương đe doạ sự
độc tôn của Hán văn cổ điển mà Quốc dân đảng xây dựng khi đến Đài Loan (8). Vì
thế chính quyền Quốc dân đảng đã ngăn cấm loại chữ mới này.
Vì chính sách ngôn ngữ và văn hóa
độc tôn trọng Hán của chính phủ Quốc dân đảng trước đây, rất nhiều thanh niên
thuộc các thế hệ mới gần đây đã quên đi tiếng cha mẹ của họ. Chính sách này
được thể hiện qua sự cấm dùng tiếng địa phương ở các nơi công cộng, công sở,
hay giảm thiểu tối đa tiếng địa phương trên truyền thanh và truyền hình. Không
những thế, trường học nào để học sinh nói tiếng địa phương, không phải Quan
thoại bị phạt tiền.
Ông Trần Thuỷ Biển (và trước đó ông Lý
Đăng Huy) hiện nay đã có chính sách cho phép các ngôn ngữ điạ phương được dùng
và dạy trong môi trường đa văn hoá ở xã hội Đài Loan. Bảo tồn và phát triển các
loại văn hoá bản sứ đều được khuyến khích. Ở Đài Bắc, Cao Hùng và nhiều nơi khác,
các trung tâm văn hoá Hakka, Hoklo, thổ dân đã được thành lập. Tháng 4/2001,
ông Trần Thuỷ Biển cũng đã chính thức khai mạc mở viện bảo tàng văn hoá và lịch
sử Hakka lớn nhất Đài Loan ở thành phố Meinung, thuộc quận Cao Hùng. Trong nội
các chính phủ, ông thành lập Uỷ Ban văn hoá Hakka, với hy vọng sẽ biến Đaì Loan
thành trung tâm nghiên cứu về văn hóa Hakka cao cấp nhất trên thế giới.
Từ giữa thập niên 1980s cho đến nay,
song song với sự thành lập phong trào dân chủ và đảng đối lập Dân chủ tiến bộ,
có phong trào Taibun (Đài Văn) phổ biến văn học bản xứ Taigi (Đài ngữ). Mục
đích của phong trào Đài Văn là phát triển văn học Đài Loan dùng ngôn ngữ, và
chữ viết địa phương trong các địa hạt giáo dục, xã hội, để chống lại quan điểm
là chỉ có văn học Hán văn viết về Trung quốc là có văn hoá cao được quý trọng.
Còn văn học viết về Đài Loan chỉ là văn hoá “xóm làng “ ở địa hạt nhỏ bé trong
văn học rộng lớn Trung quốc. Quan điểm coi nhẹ, đánh giá thấp văn hoá địa
phương từ trước đến nay của chính quyền Quốc dân đảng và của đa số các nhà trí
thức Hán học quan thoại cổ điển từ lục địa đi qua, đè nặng vào lối suy nghĩ tâm
linh của họ, đã bị chỉ trích.
Phong trào Đài Văn ngược lại lấy văn
học, những gì liên quan hay viết đến Đài Loan bản sứ làm sự hảnh diện chứ không
phải là một sự hổ thẹn “xóm làng”. Phong trào Đài Văn một phần đã thành công
trong sự gơi dậy niềm tin và phát triển văn hóa, cũng như ngôn ngữ Đài Loan bản
địa (Hoklo). Nhưng sự thống nhất và tiêu chuẩn hóa chữ viết đã chưa thực hiện
được. Lý do chính là vì có nhiều hệ thống chữ (dùng từ Hán để phát âm, tương tự
như chữ Koa-a-chheh trước đây) được sáng chế khác nhau. Ngay cả khi một trong
các loại chữ này, như chữ Ganbun (諺文) chẵng hạn, được nhiều người dùng hơn, thì vấn đề kỷ thuật trên máy tính và phần mềm xử lý để
tạo ra chữ Ganbun đã gặp khó khăn. Vì hiện nay chỉ có chữ Hán là có sẵn và phổ
thông trên thị trường máy tính mà thôi. Do đó hiện nay chỉ có chữ Hán Đài ngữ
và Latin Đài ngữ (Peh-oe-ji) là được dùng nhiều nhất trong phong trào Đài văn.
Nói tóm lại, có thể cho rằng tình
trạng của các dân tộc Hakka, Hoklo (“Mân Việt” ở Đài Loan cũng giống như tình
hình ở Giao châu trước khi Ngô Quyền dành độc lập cho Lạc Việt. Dân tộc Lạc
Việt đã cố gắng giữ gìn văn hóa trong gần 1,000 năm Hán thuộc mà không bị Hán
hóa. Nhưng tình hình ở thế kỷ 21 có khác nhiều về không gian thế giới, do đó
tình trạng của họ có khó khăn nhiều hơn và có thể không có nhiều hy vọng trên
con đường tiến đến độc lập như chúng ta thuở trước. Tuy vậy không ai có thể
đoán trước được những gì sẽ xảy ra trong tương lai. Đối với Việt Nam, những gì
sẽ xảy ra ở Đài Loan đều có ảnh hưởng ít nhiều về phương diện kinh tế và chính
trị. Quan trọng hơn, nó còn chứa nhiều ý nghĩa đáng cho ta suy nghĩ về chính
mình trong lãnh vực tư tưởng.
Tham khảo
·
Nguyễn Đức Hiệp: Đài Loan và cội nguồn Bách Việt..
·
Scott, S., “Formosa diary #22, May 20: A great proletarian
cultural revolution” Southeast Asia Discussion List, 25 May 2000.
·
Lin, M., Chu L., Lee H. et al, “Heterogeneity of Taiwan’s
indegenious population: possible relation to prehistoric Mongoloid dispersals”
Tissue Antigens, 2000:55:1-9.
·
Lin M, Chu CC,
Chang SL, Lee HL, Loo JH, Akaza T, Juji T, Ohashi J, Tokunaga K., “The origin
of Minnan and Hakka, the so-called “Taiwanese”, inferred by HLA study” Tissue
Antigens 2001; 57: 192-199.
·
Tsai Ting-I, “Tracing Taiwanese bloodlines” The Taipei
Times, 6 May 2001.
·
Norman, J.,
“Chinese” Cambridge language surveys, Cambridge University Press, 1988.
·
Norman, J. ,
Mei Tsu-lin. “The Austroasiatics in ancient south China: some lexical evidence”
Monumenta Serica, 1976, 32.274-301.
·
Sagart, L., “Han, Hakka and the formation of Chinese
dialects” tài liệu qua liên lạc cá nhân (chư đăng trên tạp chí).
·
Wi-vun Taiffalo
Ching, “Language, Literacy and nationalism: A comparative study of Taiwan and
Vietnam” Vietnam Journal, Vol. 1, Oct. 2001.
·
Melton, T.,
Clifford S., Martinson J., Batzer M., Stoneking M.., “Genetic evidence for the
proto-Austronesian homeland in Asia: mtDNA and nuclear DNA variation in
Taiwanese aboriginal tribes” Am. J. Hum. Genetics, 63 : 1807-1832, 1998.
·
Sagart, L., “The vocabulary of cereal cultivation and the
phylogeny of East Asian languages” 17th Indo-Pacific Prehistory Association
Congress (IPPA 17), 9-15 September 2002, Taipei.
·
Oppenheimer, S., Richards, M., “Fast trains, slow boats,
and the ancestry of the Polynesian islanders” Science Progrss, 2001,
84(3),157-181.
·
Gibbons, A., “The peopling of the Pacific” Vol. 291,No.
5509. 2 march 2001,1735-1737.
1. Bellwood,
P., “The Austronesian dispersal and the origin of languages” Scientific
American 265, 70(1991).
--
You received this message because you are subscribed to the Google Groups "DiendanTuoiHac" group.
To unsubscribe from this group and stop receiving emails from it, send an email to xomnhala_yamaha+unsubscribe@googlegroups.com.
To post to this group, send email to xomnhala_yamaha@googlegroups.com.
To view this discussion on the web visit https://groups.google.com/d/msgid/xomnhala_yamaha/CANHt%2BJxfeFqyvTWBqE8yZvWJOW2RjSUH0g47%2BAuQ9Fv_%3D2JT3w%40mail.gmail.com.
For more options, visit https://groups.google.com/d/optout.
You received this message because you are subscribed to the Google Groups "DiendanTuoiHac" group.
To unsubscribe from this group and stop receiving emails from it, send an email to xomnhala_yamaha+unsubscribe@googlegroups.com.
To post to this group, send email to xomnhala_yamaha@googlegroups.com.
To view this discussion on the web visit https://groups.google.com/d/msgid/xomnhala_yamaha/CANHt%2BJxfeFqyvTWBqE8yZvWJOW2RjSUH0g47%2BAuQ9Fv_%3D2JT3w%40mail.gmail.com.
For more options, visit https://groups.google.com/d/optout.
__._,_.___
No comments:
Post a Comment