Dưới thời TT Ngô Đình Diệm .
Sách học trò
tiểu học :
Bản đồ nước VN
ta hình cong chữ S , chạy dài từ ải Nam Quan đến mũi Cà Mau . Nước VN ta có hai
ngàn năm trăm cây số đường biển; vưa lúa đồng bằng sông Cửu Long
trù phú , cò bay thẳng cánh .
Thủ
đô Sài Gòn được thế giới gọi là Hòn Ngọc Viễn Đông...
Hoàng
Sa -Trường Sa là của nước Việt Nam Cộng Hòa
Hàn Giang Trần Lệ Tuyền
Ngày
14 tháng 9 năm 1958, “thủ tướng” Phạm Văn Đồng đã bất chấp cả luật pháp quốc tế, khi ngang nhiên nhân danh:
“Thủ tướng nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, kính gửi đồng chí Chu Ân Lai Tổng lý nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa” để ký-gửi một bản văn mà xem như là dâng hiến cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền của nước Việt Nam Cộng Hòa cho Trung cộng. Một bản văn hoàn toàn bất hợp pháp; bởi vì theo nguyên lý thông thường, thì không một ai có quyền dâng, bán bất kể là một vật gì, dù nhỏ nhất của người khác, không thuộc quyền sở hữu của mình, và một người biết tôn trọng luật pháp, tôn trọng lẽ phải, thì không bao giờ chịu đi mua hay nhận bất cứ một vật gì mà do một người không có quyền sở hữu đem dâng, bán cho mình.
Nhưng đây là chuyện đại sự giữa ba nước: Nước Việt Nam Cộng Hòa, nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa. Bản văn của Phạm Văn Đồng, là “Thủ tướng nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa” lại dám ngang nhiên ký một cái “công hàm” để đem dâng-bán một phần biển, đảo của nước Việt Nam Cộng Hòa cho Trung cộng, thì không phải riêng người bán, mà kể cả kẻ mua cũng đều vi phạm luật pháp quốc tế.
Năm 1958, Hoàng Sa-Trường Sa thuộc chủ quyền của chính quyền Đệ Nhất Việt Nam Cộng Hòa. Vì thế, Phạm Văn Đồng “thủ tướng nước Việt Nam dân Chủ Cộng Hòa”, không có một chút quyền, không có một tư cách gì để ký-gửi một văn bản như thế cho được.
Sắc lệnh số 174-NV ngày 13/7/1961 của
Tổng thống Việt Nam Cộng Hoà Ngô Đình Diệm
Bia chủ quyền Việt Nam dựng trên đảo Trường Sa, quần đảo Trường Sa
(1961)
(Cuốn DVD đầu tiên về TT Ngô
Đình Diệm )
|
||||||
|
||||||
Rồi đến năm 1974, khi Trung cộng xâm lăng, đánh chiếm Hoàng Sa, thì Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa cũng đã anh dũng chiến đấu, và đã phải hy sinh cả máu xương để bảo vệ Hoàng Sa. Nhưng nên nhớ, là vào thời điểm ấy, Trung cộng không dám đem cái bản văn của Phạm Văn Đồng ra để “nói chuyện”; vì Trung cộng đã tự biết, đối với chính quyền Việt Nam Cộng Hòa, thì đó chỉ là mảnh giấy lộn, không hề có một chút giá trị về pháp lý trước quốc tế.
Nhưng sau ngày 30 tháng tư năm 1975, khi đảng cộng sản Hà Nội đã bất chấp những hiệp ước, như Hiệp định Paris, 1973, về Việt Nam, nên đã dùng vũ lực xua quân xâm lăng và cưỡng chiếm nước Việt Nam Cộng Hòa, một quốc gia có Tổng thống, có Hiến Pháp, có Lưỡng Viện Quốc Hội, có đầy đủ tất cả, và đã được quốc tế công nhận. Để rồi sau đó, đã noi theo cái câu “kinh” của Trang Tử là “Thiết quốc giả Hầu”; nên kể từ ngày ấy, đảng cộng sản - nhà cầm quyền Hà Nội đã xin làm chư hầu cho Trung cộng, bằng chứng đã hiển nhiên, là hiện nay nhà cầm quyền Hà Nội đã đi vào giai đoạn Hán hóa cả dân tộc Việt bằng một cách hữu hiệu nhất, là đưa tiếng Tầu vào chương trình “giáo dục” ngay từ bậc tiểu học!
Một trong vô số những sai lầm của đảng Cộng sản Hà Nội, là tưởng rằng, cứ đưa tên tuổi của Hải quân Thiếu tá Ngụy Văn Thà và các chiến sĩ đã hy sinh trong trận Hải chiến Hoàng Sa năm 1974, thì tất cả Dân-Quân-Cán-Chính Việt Nam Cộng Hòa sẽ chịu cùng làm tay sai cho Hà Nôi. Điều này, không thể hoàn toàn phủ nhận, vì đã có một thiểu số, đã và đang đi vào quỹ đạo của Hà Nội; nhưng đại đa số Dân-Quân-Cán-Chính Việt Nam Cộng Hòa, chỉ chấp nhận đem máu xương của mình để bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ, lãnh hải của đất nước Việt Nam, và sẵn sàng hy sinh tất cả cho chính Nghĩa Quốc Gia Việt Nam Cộng Hòa mà thôi.
Mặt khác, bởi vì chỉ có chính quyền của nước Việt Nam Cộng Hòa mới có đủ tư cách pháp lý trước quốc tế, (mà ngayTrung cộng cũng không thể phủ nhận được), để giành lại chủ quyền của Hoàng Sa và Trường Sa; nhưng chẳng riêng ai, mà chính đảng Cộng sản và nhà cầm quyền Hà Nội cũng biết chắc, biết rất rõ những điều này, biết phải làm gì để giành lại biển, đảo, để giành lại quyền tự quyết cho dân tộc, nhưng vì đặt quyền lợi riêng của cá nhân, của phe đảng, của gia đình lên trên cả quyền lợi của Tổ Quốc và Dân Tộc, và cũng vì nhớ lại những đòn phép của họ đối với người dân cả nước nói chung, và nói riêng đối với Dân-Quân-Cán-Chính Việt Nam Cộng Hòa sau ngày 30/4/1975; nên họ rất sợ sự trả thù của người dân.
Nhưng đảng Cộng sản-nhà cầm quyền Hà Nội đã không nhớ rằng: trước ngày 30/4/1975, tất cả những tù binh, tù nhân Cộng sản tại miền Nam, đều được chính quyền Việt Nam Cộng Hòa đối xử trong tình người, rất tử tế. Tất cả đều được ăn no, mặc ấm, khi được trả tự do, họ đều khỏe mạnh hơn trước khi bị bắt rất nhiều, bởi vậy, mới có nhiều tù binh, tù nhân khi được trao trả về miền Bắc, thì họ đã biểu tình xin được ở lại miền Nam theo chính sách Chiêu Hồi.
Nói
tóm lại, chính quyền Việt Nam Cộng Hòa là một chính quyền đầy tình nhân ái, và vị tha theo đạo lý Việt. Đạo lý ấy, không bao giờ cho phép những con người có lương tri có những cách hành xử vô nhân đạo giữa những con người với nhau.
Tuy nhiên, vì chắc chắn đảng cộng sản Việt Nam sẽ không bao giờ đặt quyền lợi của Tổ Quốc và Dân Tộc lên hàng tối thượng. Chính vì thế, nên chúng ta, tất cả người Việt Nam yêu nước chân chính, cần phải đồng tâm, quyết liệt bằng mọi cách, để đòi lại nước Việt Nam Cộng Hòa, hầu giành lại Hoàng Sa-Trường Sa và sự toàn vẹn lãnh thổ, lãnh hải của đất nước Việt Nam. Dân-Quân-Cán-Chính Việt Nam Cộng Hòa vẫn còn đấy!
Đồng
bào Thủ đô Sài Gòn đang chờ đón các chiến sĩ tham dự trận hải chiến Hoàng Sa
trở về.
Đồng
bào Thủ đô Sài Gòn đang biểu tình “nêu cao tinh thần chống cộng”, đả đảo-lên án
bá quyền Trung cộng.
Trở lại với Hoàng sa-Trường Sa là của nước Việt Nam Cộng Hòa. Quả đúng, sự thật hiển nhiên là như thế. Chỉ có nước Việt Nam Cộng Hòa mới có đủ tư cách pháp lý quốc tế, để đòi, để giành lại Hoàng Sa-Trường Sa cũng như sự toàn vẹn lãnh thổ, lãnh hải của đất nước Việt Nam, là những núi xương, sông máu, là những dòng nước mắt do tiền nhân của chúng ta đã dày công dựng xây và giao phó cho chúng ta và hậu thế, đời đời phải noi gương và gìn giữ.
Và cũng chính vì những lẽ đó, nên cho dù với những tấm lòng thiết tha với tiền đồ của dân tộc. Thế nhưng, qua những lần tranh đấu, những cuộc biểu tình của đồng bào ở trong cũng như ngoài nước, thì tất cả thường chỉ nêu những câu khẩu hiệu: “Hoàng Sa-Trường Sa là của Việt Nam”. Nhưng trớ trêu thay! vì Việt Nam Cộng Sản, là hậu thân của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa” theo như văn bản chính thức và công khai của “thủ tướng” Phạm Văn Đồng đã gửi cho “đồng chí Chu Ân Lai của nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa” vào ngày 14 tháng 9
năm 1958. Chính vì thế, cho nên Việt Nam Cộng sản, tức “Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam” không có đủ tư cách pháp lý trước quốc tế, để đòi, để giành lại Hoàng Sa-Trường Sa.
Một lần nữa, người viết bài này, chỉ muốn lập lại rằng, muốn giành lại Hoàng Sa-Trường Sa, thì xin mọi người, đồng bào tại quốc nội cũng như ở hải ngoại, trong những cuộc biểu tình, trong những buổi sinh hoạt đấu tranh, hoặc cộng đồng, thì xin hãy nêu cao những câu khẩu hiệu:
Hoàng Sa-Trường Sa là của nước Việt Nam Cộng Hòa - Hoàng Sa-Trường Sa là của nước Việt Nam Cộng Hòa!
Pháp
quốc, 27/3/2012
Hàn Giang Trần Lệ Tuyền
-----------------------------------------------------------------------------
Nguồn BBC Việt ngữ
TQ lại nhắc Công
hàm Phạm Văn Đồng
Cập
nhật: 12:04 GMT - thứ ba, 20 tháng 5, 2014
Một
nhà ngoại giao và một học giả Trung Quốc nói Công hàm 1958 là bằng chứng Việt
Nam công nhận Hoàng Sa thuộc về Trung Quốc.
Công
hàm 1958 gây tranh cãi của Thủ tướng Phạm Văn Đồng lại được Trung Quốc đề cập
trong bối cảnh Việt Nam và Trung Quốc đối đầu vì vụ giàn khoan HD-981.
Căng
thẳng Việt – Trung đã gia tăng, với việc nổ ra các cuộc bạo động ở Việt Nam,
sau khi Việt Nam lên án Trung Quốc hạ đặt giàn khoan tại khu vực biển Hoàng Sa.
Hôm
20/5, đại biện lâm thời Sứ quán Trung Quốc ở Indonesia có bài đăng trên báo
Indonesia Jakarta Post để biện hộ cho Trung Quốc.
Ông
Lưu Hồng Dương nói quần đảo Tây Sa (tên Trung Quốc dùng để chỉ Hoàng Sa) là
“lãnh thổ vốn vẫn thuộc về Trung Quốc”.
“Vị
trí của các đảo đã được cộng đồng quốc tế, kể cả Việt Nam, công khai thừa nhận
trong nhiều thập niên từ Thế chiến Hai.
“Trong
tuyên bố ngày 14/9/1958 thay mặt chính phủ Việt Nam, Thủ tướng Việt Nam khi đó,
Phạm Văn Đồng, công khai thừa nhận quần đảo Tây Sa và các đảo khác ở Nam Hải là
lãnh thổ Trung Quốc.”
Ông
Lưu Hồng Dương cáo buộc “việc chính phủ Việt Nam gần đây thay đổi và từ chối
công nhận Tây Sa là của Trung Quốc thật vô cùng gây sốc”.
“Việt
Nam rõ ràng vi phạm nguyên tắc ‘estoppel’ [không được nói ngược],” ông Lưu cáo buộc.
Bày
tỏ lập trường chính thức của Trung Quốc, ông Lưu nói tranh chấp giữa Việt Nam
và Trung Quốc chỉ tồn tại ở quanh quần đảo Trường Sa.
Ông
Lưu cáo buộc Việt Nam có “tiêu chuẩn kép” khi đã “đánh dấu 57 lô dầu khí ở
trong vùng biển tranh chấp”.
Nói
về cuộc đối đầu quanh giàn khoan HD-981, ông Lưu nói Việt Nam “phải bỏ mọi ảo
tưởng và tiến hành hai biện pháp quyết định”.
“Một,
ngay lập tức dừng mọi hoạt động nguy hiểm chống lại giàn khoan Trung Quốc và
rút toàn bộ tàu khỏi vùng biển thuộc Trung Quốc.
“Hai,
thực thi lời hứa dừng mọi bạo lực trong nước để bảo vệ công dân và tài sản công
ty Trung Quốc ở Việt Nam.”
Bộ
Ngoại giao Việt Nam chưa lên tiếng về bài báo của ông Lưu Hồng Dương.
Trong
một diễn biến liên quan, Tiến sĩ Ngô Sĩ Tồn, Giám đốc Viện Nghiên cứu Nam Hải
của Trung Quốc, có bài trả lời phỏng vấn hãng tin Đức Deutsche Welle (DW), được
đăng trên mạng hôm 20/5.
Ông
này cũng nhắc lại về Công hàm Phạm Văn Đồng.
“Năm
1958, Thủ tướng Việt Nam khi đó là Phạm Văn Đồng đã công nhận chủ quyền Trung
Quốc đối với Tây Sa và Nam Sa trong công hàm gửi Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân
Lai.
“Hà
Nội chỉ thay đổi lập trường sau khi đất nước thống nhất năm 1975,” tiến sĩ Ngô
nói.
“Nhưng
theo nguyên tắc estoppel, Trung Quốc không tin rằng Việt Nam có thể thay đổi
lập trường về vấn đề chủ quyền.”
Công
hàm Phạm Văn Đồng vẫn gây tranh cãi sau 50 năm
Công hàm tranh cãi
Công
hàm ngoại giao do Thủ tướng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, ông Phạm Văn Đồng ký năm
1958 để phúc đáp tuyên bố của CHND Trung Hoa hôm 04/9 năm 1958 về hải phận 12
hải lý của nước này.
Viết
trên BBC, Tiến sĩ Trần Công Trục, cựu Trưởng ban Biên giới Chính phủ Việt Nam,
cho rằng công hàm “không liên quan gì đến 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa,
càng không có nghĩa là Việt Nam thừa nhận 2 quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa là của
Trung Quốc”.
“Bởi
thời điểm này 2 quần đảo đang do chính thể Việt Nam Cộng hòa, đại diện cho nhà
nước Việt Nam quản lý, thực thi chủ quyền,” ông Trục giải thích.
Tuy
vậy, tranh luận trên BBC, ông Lý Thái Hùng, một lãnh đạo của đảng Việt
Tân ở Hoa Kỳ, lại nói công hàm “vẫn đã thừa nhận chủ quyền Trung Quốc trên
Biển Đông bao gồm luôn quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam, và cho
Trung Quốc lý cớ để cột công hàm này vào nền tảng biện minh cho chủ trương xâm
lược của họ hiện nay”.
Nói
như một nhà nghiên cứu khác, Dương Danh Huy, công hàm có gây ra nghĩa vụ ràng
buộc cho Việt Nam liên quan đến Hoàng Sa, Trường Sa hay không là một vấn đề
“còn tranh cãi”.
__._,_.___
No comments:
Post a Comment