4-3-2016
Thế nào là “thoát
Trung” ? Nếu là để thoát khỏi “ảnh hưởng” của Trung Quốc thì, theo tôi, không
hẳn chỉ là các vấn đề thuộc về văn hóa, kinh tế hay “lời nguyền địa lý” như
nhiều học giả VN đã và đang bàn luận.
Thử lấy thí dụ Nhật
Bản, Đài Loan và Đại Hàn. Văn hóa (nếu không nói là văn minh) của ba nước này,
trên nhiều mặt của xã hội hiện nay vẫn thể hiện sâu đậm màu sắc của văn hóa
Khổng giáo. Về chữ viết đã đành. Thử xem một vài phim tình cảm xã hội của Đại Hàn,
Đài Loan hay Nhật sản xuất.
Ta thấy sao mà quen thuộc quá. Nếu bỏ qua những
đường nét, khung cảnh hiện đại của những thành phố tiên tiến trong một quốc gia
phát triển, thì ta tưởng đó là phim xã hội VN. Khung cảnh trong gia đình của
một người Đài Loan, Đại Hàn, thậm chí Nhật, đều giống nhau, như Việt Nam (nhứt
là VNCH trước kia).
Đó là mô hình của một xã hội ảnh hưởng văn hóa Khổng Mạnh.
Dĩ nhiên là văn hóa này đã giảm thiểu nồng độ cực đoan, đến từ việc du nhập văn
hóa bao dung và tự do của Tây phương. Ta không còn thấy cảnh thân phận người
phụ nữ bị bó rọ trong “tam tòng, tứ đức”, cũng không thấy người đàn ông với
những tín điều cứng nhắc “tam cương, ngũ thường”…
Câu hỏi đặt ra, nếp
sống gia đình ở Nhật, ở Đài Loan, ở Hàn quốc, có tốt hơn nếp sống gia đình ở VN
hay TQ hiện nay, ảnh hưởng chủ thuyết duy vật của Mác Lê Nin hay không ?
Câu hỏi tiếp theo,
là các nước Nhật, Hàn quốc, Đài Loan… về phương diện địa lý, cũng có “lời
nguyền” về “địa chính trị” không khác lắm với Việt Nam. Vậy sao họ “cách biệt”,
nếu không nói là “thoát và vượt Trung” hàng thế hệ về tiến bộ văn hóa, khoa học
kỹ thuật ?
Còn về vấn đề kinh
tế, liên thuộc kinh tế giữa Trung Quốc với các nước Nhật, Hàn, và Đài Loan hết
sức là gắn bó keo son. TQ đã, đang và sẽ mãi là đối tác quan trọng hàng đầu của
ba nước này. TQ nhờ tư bản và kỹ thuật các nước này đầu tư nên mà kế hoạch
“hiện đại hóa” thành công. Các nước này nhờ TQ mà kinh tế tăng trưởng đều đặng.
Vậy họ có cần “thoát” lẫn nhau không ?
Các nước trên, về
phương diện chữ viết, cũng như VN trước thời Pháp thuộc, đến hôm nay cũng vẫn
giữ nguyên tắc cơ bản chữ Hán. Nhưng VN, có lẽ vì muốn “khác người”, nhứt là
phải khác (và vượt trội) VNCH, do đó có khuynh hướng xóa bỏ các từ Việt gốc
Hán. Một số kinh nghiệm sau 1975 với các ngôn từ ngây ngô, như từ “xưởng đẻ” để
thay thế cho “nhà hộ sinh”. Bệnh viện Từ Dũ ở Sài Gòn có lúc đổi tên là như
vậy. Lại còn các từ như “máy bay lên thẳng”, “lính thủy đánh bộ”, “giặc lái”…
Việc sử dụng từ gốc
Hán không có gì phải mặc cảm. Người Nhật, người Hàn… xem ra còn lệ thuộc vào
chữ Hán còn hơn VN. Bên Châu Âu cũng vậy, chữ viết các xứ này đều bắt nguồn từ
Latin, Grec… Những từ khoa học các nước Âu Mỹ hầu hết đều có gốc Latin hay
Grec. Các nước này đâu thấy ai lên tiếng than phiền là lệ thuộc, tỏ ý muốn
“thoát Trung” hay “thoát Grec (hay Latin)” đâu ?
Lệ thuộc hay không
là do mình. Ta thấy một lượng lớn từ ngữ chuyên môn (học thuật hay khoa học)
Hán Việt bắt nguồn từ Nhật, do các học giả Nhật phát minh ra. Chỉ số chất lượng
về đời sống, về văn hóa, về kinh tế… trên mỗi con người của Nhật, Hàn, Đài Loan
hơn xa Trung quốc. Trong khi thành quả các tiến bộ về văn hóa, khoa học, kỹ
thuật…
Trung Quốc cũng bị các nước Nhật, Hàn… đã bỏ xa hàng vài thập niên. Như
thế, ta thấy việc ảnh hưởng văn hóa Hán (chữ viết) không hề ảnh hưởng lên việc
phát triển quốc gia.
Về kinh tế cũng vậy,
sự liên thuộc về kinh tế giữa hai nước Nhật, Hàn và Đài loan với Trung Quốc
không chừng còn quan trọng hơn quan hệ giữa TQ với Hoa Kỳ và UE cộng lại.
Trong
các quan hệ này, ta dùng từ “liên thuộc” chứ không phải “lệ thuộc”. Nếu chỉ
tính từ thập niên 80, TQ luôn nhập siêu từ Hàn quốc và Nhật. TQ cần các mặt
hàng có tính khoa học kỹ thuật cao của hai nước này để phát triển đất nước.
Trong khi Nhật và Đại Hàn cũng cần đến TQ để phát triển kinh tế.
Cho dầu Nhật
và TQ có những mâu thuẫn sâu sắc về chủ quyền quần đảo Senkaku (Điếu Ngư),
nhưng TQ chưa hề dám đe dọa dùng vũ khí kinh tế đối với Nhật.
Như vậy, dựa trên
hai yếu tố văn hóa và kinh tế để “thoát Trung”, (như các học giả VN đã và đang
hô hào) rõ ràng Nhật và Đại Hàn đang có khuynh hướng ngược lại : “nhập Trung”
thay vì “thoát Trung”.
Nhưng quan hệ kinh
tế hai bên Việt-Trung, số kim ngạch trao đổi hai bên cán cân luôn thặng dư về
phía TQ. Việc thâm thủng này ngày mỗi tăng. Điều quan trọng là quan hệ kinh tế
giữa VN và TQ, trong chừng mực, là quan hệ “thực dân – thuộc địa về kinh tế”. Nếu
đọc lại các bản tuyên bố chung của hai bên được công bố gần đây, ta thấy VN đã
nhượng cho TQ quá nhiều đặc quyền, đến đỗi các việc này có thể đe dọa nền độc
lập của quốc gia. Không nói quá, mọi huyết mạch của kinh tế VN hiện nay đều do
TQ kiểm soát.
Điều này đến từ các
quyết định chính trị chứ không phải là những lựa chọn bắt buộc. Tức là VN vẫn
có thể thoát khỏi tình trạng lệ thuộc kinh tế nếu lãnh đạo có can đảm về chính
trị.
Vì vậy, theo tôi,
thoát Trung hay không là một vấn đề “chiến lược” chứ không hẵn là kinh tế hay
văn hóa.
Một lý do thường
thấy nhiều người VN nại ra, ngại khi quay lưng lại với Trung quốc, là vấn đề
“địa chiến lược”, nước xa không cứu được lửa gần.
Ta thấy các nước như
Nhật, Đại Hàn, Thái Lan, Phi… (nếu không nói Đài Loan) đều ở kế “vách” với TQ,
nhưng họ đâu sợ TQ. Các nước này, phần lớn, là các nước dân chủ, thịnh vượng.
Để xóa bỏ nỗi ám ảnh
(chính đáng) “nước xa không cứu được lửa gần” của một số người VN hiện nay, ta
cần nhắc lại một số điều cơ bản của các lý thuyết về địa chiến lược (mà lãnh
đạo TQ bị ảnh hưởng).
Theo tôi, lý thuyết
“Địa Chiến lược – Không gian sinh tồn” của Friedrich Ratzel (xuất bản năm 1902)
có ảnh hưởng sâu sắc lên các lớp lãnh đạo (then chốt) của TQ, làm thay đổi bộ
mặt của nước này, đó là : Tưởng Giới Thạch, Mao Trạch Đông và Đặng Tiểu Bình.
Bảy định luật của
thuyết này là :
1.
Không gian (sinh tồn) của một dân tộc
được mở rộng đồng thời với văn minh của dân tộc đó. Một dân tộc có nền văn minh
tiến bộ sẽ đồng hóa các dân tộc kém văn minh hơn.
2.
Lãnh thổ quốc gia sẽ phát triển theo tỉ
lệ thuận với sức mạnh kinh tế và đội ngũ thương buôn của quốc gia cũng như chủ
thuyết phát triển quốc gia. Việc bành trướng vì thế chỉ tùy thuộc vào ý chí và
phương tiện.
3.
Việc bành trướng của cường quốc được thực
hiện qua phương cách “hấp thụ và tiêu hóa” các nước nhỏ.
4.
Đường biên giới quốc gia không xác định
(biên giới linh động – frontière vivante). Biên giới xác định chỉ có giá trị
tạm thời, chỉ để đánh dấu giữa hai giai đoạn bành trướng.
5.
Trong quá trình bành trướng, lãnh thổ
(bây giờ là biển) là mục tiêu chiếm hữu.
6.
Các quốc gia yếu kém ở kế cận là mục tiêu
bành trướng. Sự bành trướng của cường quốc không thể tiến triển nếu quốc gia
lân bang cũng là cường quốc.
7.
Hiện tượng bành trướng có khuynh hướng
lan rộng do việc tranh dành lãnh thổ của các quốc gia.
Bảy định luật của
Ratzel đã hoàn toàn chứng nghiệm cho dân tộc Hán từ lập quốc đến ngày hôm nay.
Định luật 1 : Nền
văn minh Hán Tộc đã đồng hóa tất cả các dân tộc khác, kể các các dân tộc dũng
mãnh đã chiếm hữu và trị vì Trung Quốc. Lúc đầu lập quốc, dân tộc Hán chỉ có
một vùng đất nhỏ, nhưng sau đó bành trướng ra, đồng hóa các dân tộc chung
quanh. Văn hóa các dân tộc Mãn Châu, Mông Cổ, Liêu, Kim… đã không còn dấu vết ở
Trung Quốc.
Định luật 2 : Hiện
đang thích ứng cho tình trạng TQ hiện nay. Sự vượt trội về kinh tế, cho phép
nước này hiện đại hóa quân đội. Những hành vi khẳng định chủ quyền của TQ ở biển
Đông, hay lên tiếng tranh chấp với Nhật ở quần đảo Senkaku, cho thấy ý chí của
nước này.
Định luật 3 : Định
luật này cùng với định luật 1 đã được dân tộc Hán áp dụng từ thời mới lập quốc
và còn đang tiếp tục cho đến hôm nay. Dân tộc Hán luôn bành trướng và tiêu diệt
(hay Hán hóa) tất cả các dân tộc khác. Hiện nay việc đồng hóa đang được thực
hiện ráo riết tại Tây Tạng.
Định luật 5 cho thấy
vẫn chưa lỗi thời, TQ đặt ra mục tiêu chinh phục Biển Đông (Hoàng Sa và Trường
Sa) đồng thời dành lại quần đảo Điếu Ngư (Senkaku). Nhưng định luật này cần cập
nhật thêm, vì chủ đích của việc chinh phục là vùng biển, qua hai mặt: chiếm hữu
và xây dựng các đảo nhỏ ở HS và TS thành một “bức trường thành” nhằm mục đích
phòng vệ lục địa, sau đó là tài nguyên.
Định luật 6 phản ảnh
rõ rệt thái độ bành trướng của Trung Quốc ngày hôm nay : VN và Phi, hai nước
yếu, nằm trong tầm nhắm của TQ. Trung Quốc không bao giờ muốn thấy một Việt Nam
giàu mạnh. Một nước Việt Nam giàu, mạnh sẽ ngăn cản sức bành trướng của Trung
Quốc. TQ đã sử dụng nhuần nhuyễn “quyền lực mềm” để kiểm soát VN, qua các mặt:
ý thức hệ chính trị, văn hóa và kinh tế. Ta thấy trên thực tế, đảng CSVN là một
bộ phận của đảng CSTQ. Về văn hóa, phim ảnh, sách vở… của TQ thống lĩnh trên
các chương trình truyền hình VN.
Người VN thuộc sử TQ hơn cả người TQ.
Còn về
kinh tế, hàng hóa TQ tràn ngập thị trường.
Hàng hóa TQ len lõi nhập lậu vào VN,
khiến nền công kỹ nghệ tư nhân VN chết đứng. Ngoài ra, các công trình xây dựng
ở VN hiện nay hầu hết đều do nhà thầu TQ phụ trách. Nhìn thành quả đường xe
điện ở Hà Nội, với đường rầy uống lượn nhấp nhô như “rồng”, ta thấy ngay sự
buông thả, vô trách nhiệm của lãnh đạo VN.
Đó cũng là cách áp dụng uyển chuyển
của lý thuyết “không gian sinh tồn”, biến VN thành một chư hầu kinh tế.
Từ định luật 6, ta
thấy cuộc chiến giữa TQ và Nhật chắn chắn sẽ xảy ra. TQ không thể trở thành đại
cường nếu có nước Nhật mạnh ở kế bên (và ngược lại).
Định luật 7 cho thấy
có nhiều điều cần điều chỉnh lại. Đất đai không còn là mục tiêu tranh chấp mà
là việc tranh dành vùng biển, tranh dành thị trường, vùng ảnh hưởng. Ngoài ra
là những xung đột giữa các nền văn minh (Thiên chúa – Hồi giáo) như hiện nay
(theo thuyết của Samuel P. Huntington).
Theo tôi, quan trọng
nhất trong các định luật trên là định luật 6. “Thoát Trung” là thoát lệ thuộc
chính trị, thoát u mê ý thức hệ, thoát mù quáng tình đồng chí anh em, thoát cám
dỗ “4 tốt 16 chữ vàng”…
Thoát ra được hay
không là do lãnh đạo VN có bản lĩnh chính trị, lòng yêu nước, tính can đảm và ý
chí dám hy sinh (quyền lợi bản thân và đảng phái) hay không.
Ta thấy định luật 6
chứng nghiệm cho các nước Nam Mỹ. Do gần với nước Mỹ, vì lý do “sinh tồn” của
nước Mỹ, các nước này phải là là những nước nghèo (hay chỉ mới phát triển).
(Ngoại trừ Canada, vì có cùng văn hóa và lý tưởng với Mỹ).
Trong khi những nước
Nhật, Đại Hàn, Đài loan… là những nước kế cận TQ, mà TQ là địch thủ tiềm tàng
của Mỹ, do đó bằng mọi cách Mỹ phải giúp các nước này để họ luôn giàu và mạnh
hơn TQ (để không ngả về TQ). Điều này cũng đúng cho các nước Tây Âu trong thời
chiến tranh lạnh, để các nước này có khả năng chống lại Liên Xô.
Vì thế, ở kế cận TQ
không hẳn là điều xấu. Cũng như ở kế cận nước Mỹ chưa chắc là điều tốt. Nếu
Nhật, Đại Hàn, Đài Loan… do nhờ ở kế cận TQ mà được Mỹ giúp phát triển đất nước
giàu có, hùng mạnh, thì VN cũng có thể trở nên giàu và mạnh như vậy.
Thoát Trung do đó là
vấn đề thuộc phạm vi lựa chọn: lựa chọn đồng minh, lựa chọn “ý thức hệ chính
trị”. Đó cũng là tầm nhìn “chiến lược” của lãnh đạo, chứ không phải là văn hóa
hay kinh tế
__._,_.___
No comments:
Post a Comment