Vì sao Trần Xuân Bách
mới chưa xuất hiện ở Việt Nam?
03.01.2017
Hình minh hoạ.
Chia sẻ
Sự sụp đổ của Liên bang Xô-viết năm 1991 đánh dấu sự cáo chung của
chủ nghĩa cộng sản với tư cách là một ý thức hệ mang tính toàn cầu. Tuy nhiên,
nhờ áp dụng chính sách cai trị bàn tay sắt, hoặc thực hiện đường lối cải cách
kinh tế, hoặc kết hợp cả hai sách lược đó nên thế giới hiện vẫn còn 5 quốc gia
mà trên danh nghĩa là theo ý thức hệ cộng sản – đó là Trung Quốc, Việt Nam, Bắc
Triều Tiên, Cuba và Lào.
Dù vậy, theo đúng quy luật, các chế độ độc tài này sớm muộn gì
cũng đi đến chỗ tiêu vong. Và, giống như ở Liên bang Xô-viết, ở các quốc gia cộng
sản Đông Âu, hay ở bất kỳ hệ thống nào khác, không phải các nhân tố bên ngoài
mà chính những tác nhân bên trong mới là yếu tố quyết định dẫn đến sự sụp đổ
tất yếu đó.
Trong số các nhân tố nội tại thì ngoài những sai lầm mang tính hệ thống,
sự thúc đẩy của những thành phần cấp tiến trong bộ máy cũng góp phần đặc biệt
quan trọng khiến các chế độ độc tài cộng sản đi đến chỗ sụp đổ nhanh hơn và ít
tổn thất hơn, mà trường hợp Boris Yeltsin của Nga là một ví dụ điển hình.
Ở Việt Nam, cố Uỷ viên Bộ Chính trị Trần Xuân Bách (1924-2006),
người từng cổ xuý mạnh mẽ cho công cuộc cải tổ theo xu hướng đa nguyên, đa đảng
khi còn đương chức, là một nhân vật như thế. Tuy nhiên, trong bối cảnh đường
lối cải cách, cấp tiến chưa trở thành một xu thế rõ rệt trong Đảng CSVN, lực
lượng bảo thủ vẫn còn áp đảo trên chính trường, Trần Xuân Bách đã quá đơn độc.
Và chỉ ba tháng sau bài phát biểu công khai kêu gọi
đa nguyên, đa đảng và cải tổ chính trị song song với cải cách kinh tế, ông đã
bị phê phán kịch liệt trong Hội nghị Trung ương 8 khoá VI tháng 3 năm 1990 rồi
bị trục xuất khỏi Bộ Chính trị và Ban Chấp hành Trung ương.
Bị cô lập và gần như là bị quản thúc tại gia giữa lúc phong trào
dân chủ trong xã hội chưa kịp manh nha, Trần Xuân Bách im hơi lặng tiếng cho đến
khi trút hơi thở cuối cùng vào ngày 1/1/2006. Tuy sớm bị vùi dập, nhưng tiếng
nói của ông vẫn là phát pháo hiệu, không chỉ báo hiệu tương lai dân chủ của đất
nước, mà còn cho thấy tương lai đó có cả sự ươm mầm và đóng góp quan trọng của
chính những người nằm trong guồng máy của chế độ độc tài cộng sản. Những gì ông
nêu lên 27 năm trước cho đến nay vẫn còn nguyên tính thời sự.
Kể từ đấy, công chúng Việt Nam vẫn mỏi mắt trông chờ một Trần Xuân
Bách mới. Và mặc dù phong trào dân chủ trong xã hội đã tương đối phát triển,
bối cảnh trong và ngoài nước đã thuận lợi, nhu cầu thay đổi đã trở nên bức
thiết, người ta vẫn chưa nhìn thấy bóng dáng của một nhân vật như thế. Cho đến
nay, Trần Xuân Bách vẫn là nhân vật cao cấp nhất trong bộ máy lên tiếng đòi
thay đổi một cách công khai và mạnh mẽ khi còn đương chức.
Để lý giải cho thực trạng trên, từ hiểu biết khiêm tốn của mình,
chúng tôi xin nêu ra vài nguyên nhân chủ yếu dưới đây.
Sự tha hoá của hệ thống
Trước đây, những đảng viên cộng sản như Hoàng Minh Chính, Trần Độ
hay Trần Xuân Bách đều là những người sùng tín chủ nghĩa Marx - Lenin. Trong
nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, nơi những tín điều của chủ nghĩa Marx -
Lenin và “đạo đức cộng sản” vẫn chi phối cách ứng xử của các thành viên trong
xã hội, nơi phần lớn mọi thứ của cải vốn dĩ đã khan hiếm của xã hội đều được
phân phối theo kiểu bình quân chủ nghĩa, nơi không có nhiều thứ cám dỗ để người
ta dễ đánh mất mình… những người “cộng sản chân chính” như họ vẫn có nhiều cơ
hội để bước lên những nấc thang quyền lực.
Và đến khi họ ngộ ra được chân lý,
nhận ra được thực tế phũ phàng của cái gọi là “hiện thực xã hội chủ nghĩa” và
cất lên tiếng nói của lương tri, của lý trí thì họ vẫn giữ được đạo đức, phẩm
hạnh của mình.
Lúc đó, nhà cầm quyền không còn cách nào khác ngoài việc cô lập,
gạt họ ra khỏi guồng máy, hoặc thậm chí là tống vào tù, trong bối cảnh họ đã
trở thành một biểu tượng cả về đạo đức lẫn chính trị, tức là hội đủ cả tâm lẫn
tầm trong con mắt công chúng.
Tuy nhiên, sau khi Đảng CSVN buộc phải tiến hành cái gọi là “Đổi
mới” từ năm 1986, thực chất là chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang
một nền kinh tế tư bản hoang dã mà ở đó các nhóm lợi ích thoả sức tác oai tác
quái, guồng máy công quyền gần như ngay lập tức biến thành một cỗ máy tham
nhũng khổng lồ và hoạt động ngày càng trơn tru. Để leo lên đến địa vị của những
Hoàng Minh Chính, Trần Độ hay Trần Xuân Bách trong bộ máy hiện hành, hầu như ai
ai cũng đều dính líu đến tham nhũng, tiêu cực.
Đơn giản, nếu không như thế thì
họ sẽ ngay lập tức bị loại ra khỏi “đội hình”, sẽ không có tiền để “bôi trơn”
chỗ này chỗ nọ trong những dịp bầu bán, thăng bạt, v.v. Nghĩa là, khi công
chúng còn chưa kịp nhận ra được cái “tầm” của họ thì cái “tâm” trong con người
họ đã bị tha hoá từ lúc nào không hay.
Cựu Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An từng một thời khiến công chúng
Việt Nam nức lòng nức dạ qua bài “Nguyên Chủ tịch Quốc hội bàn về phương thức
cầm quyền của Đảng” trên VietNamNet ngày 6/12/2010: lần
đầu tiên một cựu lãnh đạo chóp bu của chế độ ví Đảng CSVN như một ông vua,
không phải ông vua thời phong kiến mà là vua tập thể thời xã hội chủ nghĩa, và
đòi hỏi phải thay đổi. Người ta kỳ vọng ông sẽ tiếp quản ngọn cờ mà cố Thủ
tướng Võ Văn Kiệt để lại, hầu chí ít là trở thành thủ lĩnh tinh thần cho phong
trào dân chủ hoá đất nước. Tuy nhiên, sau một thời gian ngắn lên tiếng khá mạnh
mẽ, ngài cựu Chủ tịch Quốc hội đột nhiên im bặt, trong khi người con trai
Nguyễn Sỹ Hiệp của ông thì trở thành thư ký Thủ tướng, trợ lý Thủ tướng rồi Phó
Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ.
Sự khuynh loát của lực lượng công an
Chế độ cộng sản không chỉ là một hệ thống “đảng trị” mà còn mang
đậm bản sắc “công an trị”. Bộ máy công an thao túng gần như mọi mặt của
đời sống chính trị - kinh tế - xã hội của đất nước, khắp nơi đâu đâu cũng có
“tai mắt” (“đặc tình”) của họ.
Vì thế, bất kỳ biểu hiện “tự diễn biến, tự chuyển hoá” nào của đội
ngũ quan chức cũng đều khó thoát khỏi con mắt cú vọ của lực lượng “còn đảng còn
mình”, để rồi bị đội quân kiêu binh này nắm “thóp”, kiểm soát và sẵn sàng vô
hiệu hoá bằng đủ mọi mưu ma chước quỷ.
Sự thao túng của Bắc Kinh
Bên cạnh an ninh cộng sản, ở Việt Nam còn có sự hiện hữu của một
đội quân chuyên hoạt động trong bóng tối khác mà giới quan chức CSVN luôn phải
dè chừng – đó là Cục Tình báo Hoa Nam của Trung Quốc. Đây là lực lượng thường
xuyên theo dõi, mua chuộc, gài bẫy, thu thập bằng chứng phạm tội của giới quan
chức Việt Nam… hòng khống chế, thao túng và biến họ thành tay sai phục vụ đắc
lực cho các ông chủ Trung Nam Hải, đồng thời tìm cách vô hiệu hoá những nhân
vật có xu hướng cải cách, thân phương Tây hay chống Trung Quốc.
Mặc dù dính líu đến rất nhiều tai tiếng về tham nhũng nhưng cựu
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng vẫn từng được kỳ vọng sẽ là nhân vật khởi xướng công
cuộc dân chủ hoá đất, với những câu phát ngôn rất dễ đi vào lòng người về chủ
quyền biển đảo, về tự do dân chủ, về pháp quyền, v.v. (Điều này cho thấy một
thực tế là dân tộc Việt Nam vốn bao dung, luôn sẵn sàng tha thứ cho những đứa
con lầm lạc biết “đoái công chuộc tội”.)
Tuy nhiên, đáng tiếc là người ta đã đặt niềm tin không đúng chỗ:
Nguyễn Tấn Dũng trên thực tế là một “con bài” vô cùng đắc dụng trong
chiến lược thôn tính Việt Nam của Trung Quốc, là đối tượng bị cáo buộc phản bội
Tổ quốc trong một vụ tố cáo đặc biệt nghiêm trọng
liên quan đến bàn tay lông lá của Bắc Kinh ở Việt Nam. (Mặc dù vụ việc đã kéo
dài từ năm 2008 nhưng đến nay vẫn chưa được giải quyết đúng pháp luật.)
Những bước ngoặt trong lịch sử nhân loại luôn mang đậm dấu ấn của những
cá nhân xuất chúng. Lịch sử Việt Nam cũng không nằm ngoài quy luật đó. Hơn bao
giờ hết, nhu cầu thay đổi ở Việt Nam đang ngày càng trở nên cấp thiết, trong
bối cảnh sự tồn tại của hệ thống hiện hành chỉ còn tính bằng năm. “Thời thế tạo
anh hùng”, một Trần Xuân Bách mới, hay thậm chí một Boris Yeltsin của Việt Nam,
sớm muộn gì cũng xuất hiện khi kết cục tất yếu diễn ra.
* Blog của nhà báo Lê Anh Hùng là blog cá nhân. Các bài viết trên blog
được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập
trường của Chính phủ Hoa Kỳ.
__._,_.___
No comments:
Post a Comment