From: "hieu ngo
Sent: Saturday, July 1, 2017 6:33 AM
Subject: [ChinhNghiaViet] Fw: Thư số 68c của tác giả Phạm Bá Hoa gởi:
Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam [5 Attachments]
Thảm
Họa Bắc Thuộc
***
Phạm Bá Hoa
Thư số 68c gởi
Người
Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam.
Xin gọi chung Người Lính Quân Đội
Nhân Dân Việt Nam là Các Anh để tiện xưng hô. Chữ “Các Anh” viết hoa, bao gồm
từ người lính đến các cấp chỉ huy, ngoại trừ lãnh đạo cấp Sư Đoàn, Quân Đoàn,
Quân Chủng, Bộ Tổng Tham Mưu, và Bộ Quốc Phòng. Là Người Lính trong quân đội
“Nhân Dân”, Các Anh phải có
trách nhiệm bảo vệ Tổ Quốc Nhân Dân, vì Tổ Quốc với Nhân Dân là trường
tồn, trong khi đảng cộng sản hay bất cứ đảng nào cầm quyền cũng chỉ một giai
đoạn của lịch sử. Và nội dung tôi gởi đến Các Anh được đặt trên căn bản đó.
Với loạt Thư mà tôi tổng hợp một số
tội ác của các nhóm lãnh đạo Việt Cộng từ năm 1945 đến năm 2017, vì quá dài,
nên tôi chia ra làm 6 Thư. Mời Các Anh lần lượt đọc để có nét
nhìn rộng hơn và sâu hơn về lãnh đạo của Các Anh đã gây tội ác đến mức nào,
trong khi tuyên truyền của họ phũ lấp những hành động của họ. Đề rồi, ngày nay
người dân bị chìm trong một xã hội chỉ có dối trá là sự thật, và dối trá đã đẩy
mọi người gần như mất hẳn nếp sống tình cảm, nếp sống văn minh lịch sự, vốn dĩ
là nền tảng trong văn hóa truyền thống Việt Nam từ ngàn xưa!
Trong Thư 68c này -cũng là Thư 3/6-
tôi tổng hợp một số tội ác của các nhóm lãnh đạo Việt Cộng từ năm 1975 đến năm
1988. Mời Các Anh …
Số 10. Tội
ác vụ 16 tấn vàng tài sản quốc gia(source: Tác giả Huỳnh Bửu Sơn).
Ngay sau khi nhuộm đỏ toàn cõi Việt
Nam ngày 30/4/1975, lãnh đạo Việt Cộng tịch thu toàn bộ tài sản quốc gia, lúc
ấy trong ngân hàng quốc gia còn khối tiền mặt trị giá hơn 1.000 tỷ đồng, và 16
tấn vàng khối.
Bài viết nhan đề “Câu chuyện 16 tấn
vàng trong ngân hàng quốc gia Việt Nam Cộng Hòa sau ngày 30/4/1975”, do người
giữ chìa khóa kho vàng của ngân hàng quốc gia là ông Huỳnh Bửu Sơn kể lại:
“...Những ngày đầu
tháng 5/1975, tôi vào trình diện tại Ngân hàng Quốc gia ở 17 Bến Chương Dương
thủ đô Sài Gòn, cùng các đồng nghiệp khác, chỉ thiếu vắng một vài người. Chúng
tôi được lệnh của Ban Quân Quản Ngân Hàng Quốc Gia là chờ phân công tác. Trong
khi chờ đợi, mỗi ngày mọi người đều phải có mặt tại cơ quan. Tôi được
giao công tác tại Vụ Phát Hành và Kho Quỹ. Những ngày tiếp theo, Ban Quân quản
tổ chức học tập tại chỗ ba ngày cho các viên chức ở lại và cấp giấy chứng nhận
học tập cải tạo. Lúc đó, giấy chứng nhận này chính là một lá bùa hộ mệnh....
Đầu tháng 6/1975, tôi
được lệnh của Ban Quân quản Ngân Hàng Quốc Gia kiểm kê kho tiền và vàng của chế
độ cũ, các kho tiền và vàng thuộc quyền quản trị của Nha Phát Hành, nơi tôi làm
việc trong ban lãnh đạo từ năm 1970 với tư cách là kiểm soát viên. Anh Giám Đốc
Nha Phát Hành đã đi cải tạo tập trung, trong số người còn lại chỉ có tôi là
người giữ chìa khóa, và anh Lê Minh Kiêm -chánh sự vụ- là người giữ mã số của
các hầm bạc. Việc kiểm kê kho tiền và vàng là việc chúng tôi làm thường xuyên
hằng tháng, hằng năm nên không có gì đặc biệt. Chỉ có một điều là tôi biết lần
kiểm kê này chắc chắn là lần kiểm kê cuối cùng đối với tôi, kho tiền và vàng sẽ
được bàn giao cho nhà cầm quyền mới.
Trong những ngày hỗn
loạn, các hầm bạc của Ngân hàng Quốc gia vẫn được chúng tôi quản trị một cách
an toàn. Cần nói thêm là các hầm bạc được xây rất kiên cố với hai lớp tường
dày, mỗi lớp gần nửa thước, các cửa hầm bằng thép có hai ổ khóa và mật mã
riêng, được thay đổi định kỳ, mỗi cánh cửa nặng trên 1.000 kí lô.
Đại diện Ban Quân Quản
là một người khoảng 50 tuổi, kiểm kê là một anh bộ đội còn rất trẻ và khá thân
thiện. Anh hay nắm tay tôi trò chuyện, sau này tôi mới biết tên anh là Hoàng
Minh Duyệt, chỉ huy phó đơn vị tiếp quản Ngân Hàng Quốc Gia.
Số
vàng đúc lưu giữ tại kho của Ngân Hàng Quốc Gia vào lác ấy gồm vàng thoi, và
các loại tiền vàng nguyên chất. Có ba loại vàng thoi:
(1) Vàng thoi mua của Cục
Dự Trữ Liên Bang Mỹ (FED).
(2) Vàng thoi mua
của một công ty đúc vàng ở Nam Phi là Công ty Montagu.
(3) Vàng thoi được
đúc tại Việt Nam, do tiệm vàng Kim Thành đúc từ số vàng do quan thuế tịch thu
từ những người buôn lậu qua biên giới, phần lớn từ Lào. Tất cả 1.234 thoi vàng
nguyên chất X mỗi thoi nặng 12 đến 14 kí lô = 16.000 kí lô. Trên mỗi
thoi đều có khắc số hiệu và tuổi vàng (thường là 9997, 9998). Các thoi vàng
được cất trong những tủ sắt có hai lớp khóa và được đặt trên những kệ bằng
thép, mỗi kệ được xếp khoảng năm, sáu thoi vàng. Nhưng qua năm tháng, bị nặng
trĩu trước sức nặng của vàng, các kệ thép cũng bị vênh đi ít nhiều.
Các đồng tiền vàng
được giữ trong những hộp gỗ đặt trong tủ sắt. Đó là những đồng tiền vàng cổ có
nhiều loại, được đúc và phát hành từ thế kỷ 18, 19, từ nhiều quốc gia khác
nhau... Ngoài giá trị của vàng nguyên chất, các đồng tiền này còn được tính
theo giá trị tiền cổ, gấp nhiều lần giá trị vàng nội tại của nó. Tất cả thoi
vàng và tiền vàng cổ đều được ghi chi tiết từng đơn vị, số hiệu, tuổi vàng, số
lượng ghi trong một sổ kiểm kê do bộ phận điện toán (computer) của ngân hàng theo
dõi định kỳ hằng tháng, hằng năm, hoặc bất cứ khi nào có thay đổi xuất nhập.
Công tác kiểm kê trong
hai ngày liền. Số giấy bạc dự trữ trong các thùng bằng gỗ thông được niền bằng
đai sắt và niêm chì, mỗi thùng ghi rõ mệnh giá, loại giấy bạc, số lượng. Do đó
chỉ cần kiểm kê số lượng thùng bạc, các chi tiết tương ứng và đối chiếu với sổ
sách được điện toán hóa. Lúc đó, loại giấy bạc mệnh giá cao nhất chỉ có 1.000
đồng, thuộc loại mới phát hành, có in hình các con thú hoang trong rừng rậm
Việt Nam. Ngoài ra vẫn còn tồn kho và tiếp tục phát hành loại giấy bạc nổi
tiếng có in hình danh tướng Trần Hưng Đạo, mệnh giá 500 đồng. Tổng giá trị giấy
bạc dự trữ trong kho lúc đó -nếu tôi nhớ không lầm- là hơn 1.000 tỷ đồng, gấp đôi lượng
tiền lưu hành tại Việt Nam Cộng Hòa đến ngày 30/4/1975.
Chỉ trong một buổi
sáng, chúng tôi đã kiểm kê xong số lượng giấy bạc dự trữ. Việc kiểm kê số vàng
chiếm nhiều thời gian hơn vì phải kiểm kê từng thoi vàng một để xem trọng
lượng, tuổi vàng và số hiệu có đúng với sổ sách hay không. Cuộc kiểm kê kết
thúc, ai nấy đều vui vẻ thấy số lượng tiền và vàng kiểm kê đều đúng với sổ sách
điện toán từng chi tiết nhỏ. Tôi ký vào biên bản kiểm kê, lòng cảm thấy nhẹ
nhõm. Việc bàn giao tài sản quốc gia cho nhà cầm quyền mới đã hoàn tất. Sau
chiến tranh, ít nhất đất nước cũng còn lại một chút gì, dù khiêm tốn, để bắt
đầu xây dựng lại. Về phía chúng tôi, điều này cũng chứng minh một cung cách
quản trị đúng đắn minh bạch của những người đã từng làm việc tại Ngân Hàng Quốc
Gia Việt Nam Cộng Hòa.”
Năm 2010, cựu Đại Tá
Việt Cộng Bùi Tín, tổng biên tập báo Nhân Dân của đảng, có bài viết liên quan
đế 16 tấn vàng nói trên. Trích một đoạn: “... Năm 1987, tôi gặp ông Trường Chinh
tại Đà Lạt, tôi kể lại chuyện 16 tấn vàng thì ông cho biết: Tôi có biết chuyện
này, nhưng hết sạch cả rồi. Trong mấy năm khó khăn, cấu véo hết tấn này đến tấn
khác, mua lương thực, nguyên liệu, nay còn gì nữa đâu”. Trích một đọan khác của
ông Tín: “Đây là câu duy nhất mà tôi nghe được về số phận của hơn 16 tấn vàng
năm 1975, từ miệng của một nhà lãnh đạo”.
Ông Bùi Tín cho
biết thêm: “Trong các phiên họp của chính phủ cũng
như của Quốc Hội sau 30/4/1975,
và tháng 4/2012 Bộ Quốc Phòng họp để viết về ngày 30/4/1975, không một chi tiết
nào, cũng không một vị nào hỏi, hay nói đến vụ 16 tấn vàng lấy trong ngân hàng
của chế độ cũ tại Sài Gòn hồi tháng 5/1975, mà đảng đã sử dụng phi cơ chjở tất
cả ra Hà Nội”.
Tóm tắt. Chở 16
tấn vàng thoi về Hà Nội, khi được hỏi thì lãnh đạo Việt Cộng là Trường Chinh
trả lời, làm cho người nghe tưởng như ông vừa đi chợ về vậy. Đã lấy số vàng đó
mà không cấp lãnh đạo trung ương nào, cũng như đại biểu nào trong Quốc Hội biết
đến, nhưng lại vu khống cho lãnh đạo Việt Nam Cộng Hòa chở ra ngoại quốc. Đúng
là bản chất vừa cướp đoạt vừa nói láo của lãnh đạo Việt Cộng.
Số 11. Tội
ác đày đọa hằng triệu người trong trại tập trung (source:
Wikipedia).
Chế độ cải tạo lao động rập theo
khuôn mẫu của Trung Cộng đã được áp dụng tại Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa từ
năm 1954 với tội phạm, tù binh, và tù nhân, bị kết án chống đối nhà cầm quyền. Sau
ngày 30/4/1975, nhóm chữ “học tập cải tạo" nói đến chương trình tập trung
để cải tạo của lãnh đạo Việt Cộng đối với những người phục vụ trong quân đội và
trong ngành hành chánh Việt Nam Cộng Hòa cũ. Hệ thống trại tập trung này theo
tên gọi là trại cải tạo lao động mà Liên Xô đã sử dụng.
Tháng 6/1975, lãnh đạo Việt
Cộng ra thông cáo bắt buộc sĩ quan quân đội và viên chức thuộc chế độ Việt Nam
Cộng Hòa đi học tập cải tạo. Hơn 1.000.000 người thuộc diện phải ra trình diện.
Riêng Sài Gòn có 443.360 người trong
số đó. Từng cấp bậc như sau: “28
Tướng Lãnh. 362 Đại Tá. 1.806 Trung Tá. 3.978 Thiếu Tá. 39.304 Sĩ Quan ấp uý.
35.564 Cảnh Sát. 1.932 nhân viên tình báo. 1.469 viên chức cao cấp. Và 9.306
người trong các đảng phái chính trị.”
Sau 1 năm giam giữ trong các trại tập trung trên phần lãnh thổ
Việt Nam Cộng Hòa cũ, lãnh đạo Việt Cộng chuyển phần lớn ra các trại mới lập
tại các khu rừng già vùng Tây Bắc và phía Bắc Hà Nội, do Bộ Quốc Phòng Việt
Cộng giam giữ. Tôi, trong số gần 300 cấp Đại Tá bị giam trong trại AH 2 và AH 3
thuộc Đoàn 776, tại xã Việt Cường, huyện Trấn Yên, tỉnh Hoàng Liên Sơn. Từ đó,
danh từ “tù chính trị” được sử dụng để chỉ quân đội + nhân dân + cán bộ + viên
chức hành chánh Việt Nam Cộng Hòa cũ trong các trại tập trung mà Việt Cộng gọi
là trại cải tạo.
Riêng Đoàn 776 trú đóng tại Yên Báy,
quản trị 82 trại đánh số từ AH1 đến AH82 rải rác trong các tỉnh chung quanh.
Trên toàn quốc, theo lời kể của tù chính trị, ít nhất cũng hơn 200 trại tập
trung từ Mũi Cà Mau cực Nam đến trại Cổng Trời cực Bắc Việt Nam.
Xin hiểu rằng, con số những trại tập
trung mà tôi nói ở đây, chưa nói đến con số những trại tù do Công An cai quản.
Trước khi quân Trung Cộng tấn công 6
tỉnh dọc biên giới phía bắc hồi tháng 2/1979, lãnh đạo Việt Cộng chuyển “tù
chính trị chúng tôi” xuống các trại tập trung vùng đồng bằng Sông Hồng do Công
An giam giữ. Trong những năm đầu của thập niên 1980, Việt Cộng chuyển phần lớn
tù chính trị chúng tôi vào các trại tập trung trong Nam, đến năm 1985 chỉ còn
lại trại tù duy nhất là Trại Nam Hà với khoảng 500 tù chính trị, và tôi trong
số này. Cứ mỗi 3 năm, lãnh đạo Việt Cộng ký lệnh gia hạn giam giữ thêm 3 năm
nữa. Và cứ liên tục như vậy tại tất cả các trại giam dù trong Nam hay ngoài
Bắc.
Năm
1980, Thủ Tướng Việt Cộng Phạm Văn
Đồng nói rằng: ”Hiện còn
26.000 người trong các trại cải tạo”. Tuy nhiên, một số báo chí ngoại
quốc ước tính khoảng 100.000 đến 300.000 vẫn đang bị giam giữ trong các trại
tập trung. Trong khi Hoa Kỳ ước tính khoảng 165.000 người đã chết trong các
trại tập trung.
Và trường hợp nào mà quân nhân viên
chức Việt Nam Cộng Hòa cũ được ra khỏi trại tập trung, và cùng gia đình sang
Hoa Kỳ định cư?
Trong lúc tôi bị giam trong buồng
giam số 1, Trại Nam Hà A, tỉnh Hà Nam Ninh, vào buổi tối ngày 5/8/1987 sau khi
cửa buồng giam số 1 đóng lại nghe cái rầm, thanh sắt kéo ngang nghe réc-réc, và
tiếng crắc của ống khóa bóp lại, là tôi đọc báo. Tôi đọc ngay bản tin ngắn trên
tờ Nhân Dân của cộng sản Việt Nam mà hằng tuần họ cho chúng tôi 2 lần báo. Đọc
xong là tôi phải ngưng lại vì anh em chúng tôi bàn luận rất ồn ào.
Bản tin nói gì mà ồn ào vậy? Bản tin
như sau:“Ngày 2 và 3 tháng 8 năm
1987, Tướng hồi hưu Vessey, với tư cách Đặc Sứ của Tổng Thống Hoa Kỳ Ronald
Reagan sang Việt Nam, gặp Bộ Trưởng Ngoại Giao Việt Nam Nguyễn Cơ Thạch. Hai
bên thỏa thuận điểm đầu tiên về hợp tác đẩy mạnh công cuộc tìm kiếm người Mỹ
mất tích trong chiến tranh Việt Nam, và điểm 2 là vấn đề trả tự do cho những người học tập
cải tạo để cùng gia đình được xuất ngoại sang Hoa Kỳ theo nguyện vọng”.
Từ ngày 12/8/1987, 3 toán
Công An từ Hà Nội đến trại này -đây là trại tập trung duy nhất còn lại trên đất
Bắc- để phỏng vấn khoảng 200 trong số hơn 400 anh em chúng tôi đang bị giam tại
đây. Họ làm việc trong 2 tuần lễ. Đến ngày 5/9/1987, toán Công An khác cũng từ
Hà Nội đến đọc lệnh ra trại, và đây là đợt ra trại đầu tiên. Tôi trong số này.
Ngày 9/9/1987, 91 tù
chính trị chúng tôi được đưa xuống Nam Định, lên xe lửa rời nhà ga này lúc 5
giờ chiều cùng ngày, và sau 3 ngày 3 đêm về đến Sài Gòn lúc 6 giờ chiều ngày
12/9/1987. Những ngày sau đó, anh em chúng tôi gặp nhau tại các cơ quan Công An
khi đến đó làm giấy tờ tùy thân, mới biết là cùng về với anh em chúng tôi ngoài
Bắc, có rất nhiều anh em bị giam trong các trại tập trung trong Nam cũng được
về.
Đầu tháng 4/1991, vợ chồng tôi đến
Hoa Kỳ đoàn tụ với các Con chúng tôi đã vượt biển trong năm 1980 và 1981. Mãi
đến năm 1997, tôi được đọc lá thư ngày 10/6/1997 bằng Anh ngữ của cựu Đại Tướng
John W. Vessey, gởi anh Hội Trưởng Hội Cựu Tù Nhân Chính Trị Minnesota khi ông
được mời tham dự đại hội H.O. tại địa phương ông cư ngụ. Sở dĩ có lá thư vì ông
không đến được, nên ông viết thư và muốn anh Hội Trưởng đọc trong buổi họp mặt
để mọi người tham dự được nghe tâm sự của ông.
Người dịch sang Việt ngữ là Ông hay
Bà Nguyễn T. Ngọc Châu. Xin trích 3 đoạn:
“..... Năm 1987, khi
đang hồi hưu, tôi được Tổng Thống Reagan cử làm Đặc Phái Viên đi Hà Nội thương
thuyết. Một trong những nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu mà tôi được Tổng Thống giao
phó là phải tìm cách giải thoát những cựu chiến hữu Việt Nam đang bị giam giữ
trong những cái gọi là “trại cải tạo”. Tôi cũng được quyền bảo đảm với chánh
phủ Hà Nội rằng, Hoa Kỳ sẳn sàng chấp nhận và đón tiếp những người tù cải tạo
cùng gia đình họ sang Hoa Kỳ”.
“Trong những cuộc
thương thuyết sơ khởi, chúng tôi không hi vọng hai bên sẽ có ngay những giải
pháp chính trị, cho nên tất cả những hành động mở đường cho những thỏa ước
tương lai đều mang danh “chiến dịch nhân đạo” -Humanitarian Operations- gọi
tắt Anh ngữ là H.O. Do vậy mà danh từ H.O. được Cộng Đồng Việt - Mỹ sử dụng, để
nói về những cựu tù nhân chính trị Việt Nam đang sinh sống trên đất Hoa Kỳ.
“Riêng với tôi, H.O.
là biểu tượng của lòng dũng cảm, tinh thần phục vụ, và lòng hi sinh. Tất cả
những ai được gọi là H.O. đều là những anh hùng thực sự trong thời đại chúng
ta”.
Tôi đưa lá thư của cựu Đại Tướng
John W. Vessey vào đây, để Các Anh và quí độc giả thấy rõ sự dối trá của lãnh
đạo Việt Cộng khi họ huênh hoang rằng: “Với chính sách khoan hồng nhân đạo,
lãnh đạo nhà nước trả tự do cho ngụy quân ngụy quyền về với gia đình, sau khi
họ học tập cải tạo tốt” (trích trong Wikipedia). Trong khi chính xác là
lãnh đạo Việt Cộng sử dụng tù chính trị chúng tôi, trao đổi với chánh phủ Hoa
Kỳ để mong được thiết lập bang giao với Hoa Kỳ, và hy vọng được Hoa Kỳ giúp đỡ
nền kinh tế Việt Nam suy sụp.
Tóm tắtVì rập khuôn hệ
thống trại tập trung của Liên Xô -cộng sản quốc tế- nên giam giữ mà không cần
tòa tuyên án hằng mấy trăm ngàn tù chính trị, như thể thế giới này không có
ngành tư pháp trong hệ thống công quyền. Đến tháng 4/1992, hơn trăm người cuối
cùng mới ra khỏi trại tập trung. Đúng là bản chất hận thù của cộng sản.
Số 12. Tội
ác về tiêu hủy văn hóa phẩm truyền thống (source:
Wikipedia).
Sau khi nhuộm đỏ toàn cõi Việt Nam
ngày 30/4/1975, lãnh đạo Việt Cộng thực hiện những đợt truy lùng và tiêu hủy
các sách báo mà họ gọi là "văn hóa đồi trụy miền Nam". Ngày
20/8/1975, Bộ Thông Tin Văn Hóa ra thông tri 218/CT75, ra lệnh cấm lưu hành các
loại sách phản động. Tháng 9/1975, họ qui định danh mục sách bị cấm lưu
hành, buộc các nhà bán sách báo và các nhà xuất bản thời chế độ cũ phải đem đốt
tất cả. Tháng 5/1977, Việt Cộng Sài Gòn ra thông tri 1230/STTVH/XB, bắt
dân chúng phải tiêu hủy hoặc mang nộp toàn bộ các ấn phẩm văn hóa thời Việt Nam
Cộng Hòa, trong khi Công An mở chiến dịch càn quét truy lùng sách báo cũ, chặn
bắt người mua bán, thậm chí họ còn được lệnh vào nhà dân lục soát tịch thu bất
cứ lúc nào họ muốn.
Tháng 6/1981, trong cuộc truy lùng
càn quét của Công An, đã dịch thu khoảng 3.000.000 ấn phẩm sách và báo. Riêng
tại Sài Gòn, tịch thu được 60 tấn sách vở các loại theo tường trình của tạp chí
cộng sản. Tất cả có năm chiến dịch ở Miền Nam vào cuối 1975, đầu 1976,
giữa 1977, giữa 1981, và giữa 1985. Ai lưu trữ ấn phẩm thời Việt Nam Cộng Hòa
đều bị truy tố dưới điều luật 82, trong đó ghi rằng: “Việc làm ra, tàng trữ, lưu hành các
tài liệu, văn hóa phẩm có nội dung chống chế chế độ xã hội chủ nghĩa là
"trọng tội", có thể bị tù từ 10 năm đến 20 năm”.
Ngoài ra, còn có những trường hợp
tiêu hủy sách một cách vô cớ như vụ đốt sách ở Trung Tâm Nghiên Cứu Văn Hóa
Chăm ở Phan Rang năm 1978, do Giám Đốc Thư Viện tỉnh ra lệnh. Hàng trăm
tấn sách biến thành đống tro; một số học giả cố vớt vát nhưng chẳng được bao
nhiêu. Các văn nghệ sĩ Miền Nam cũng bị bắt. Tính đến năm 1980, đã có 200 người
từng sáng tác trước năm 1975 đã bị giam và đưa đi tù cải tạo.
Lệnh của Bộ Văn Hoá Thông Tin Việt
Cộng buộc mọi người phải tiêu hủy toàn bộ văn hoá phẩm thời Việt Nam Cộng Hòa
mà họ gọi là văn hóa phẩm đồi trụy và phản động. Họ mở chiến dịch truy lùng bắt
giữ những ai tàng trữ, buôn bán, bắt giữ, và truy tố ra “tòa án nhân dân”.
Chính sách này giống chính sách của vua Tần Thỉ Hoàng thời Trung Hoa phong
kiến, và thời Mao Trạch Đông cộng sản trong Cách Mạng Văn Hóa vậy.
Từ cuối thập niên 1980, sau cuộc
"cởi trói" văn nghệ sĩ có nhiều tác phẩm được phép xuất bản nhưng sau
lại bị thu hồi. Trước tiên là cuốn tiểu thuyết Ly Thân của Trần Mạnh
Hảo. Sách vừa in ra thì có lệnh cấm ngay. Tiếp theo là sách của Dương Thu
Hương với tác phẩm Những Thiên Đường Mù, tác
phẩm Bên Kia Bờ Ảo Vọng, và Tiểu Thuyết Vô Đề. Bà
Dương Thu Hương mạnh mẽ phản đối chính sách kiểm duyệt tại Đại Hội Nhà Văn Việt
Nam năm 1982. Kết quả là lãnh đạo Việt Cộng ra lệnh cấm mọi tác phẩm của
bà không được in hay bán trong nước. Năm 1989 bà bị đuổi khỏi đảng, và bị bắt
giam năm 1991. Năm 2006, nhà văn Dương Thu Hương lưu vong tại Pháp.
Năm 2001, có lệnh tịch thu và tiêu
hủy tác phẩm Chuyện Kể Năm 2000 của
Bùi Ngọc Tuấn
Năm 2002 Bộ Thông tin Văn hóa Việt
Nam ra lệnh tịch thu và thiêu hủy những tác phẩm:
1. “Suy tư và ước vọng” của
Nguyễn Thanh Giang.
2. “Đối thoại năm 2000 và Đối thoại năm 2001” của
Trần Khuê và Nguyễn Thị Thanh Xuân
3. “Gửi lại trước khi
về cõi” của Vũ Cao Quận.
4. “Nhật ký rồng rắn: của Trần
Độ.
Năm 2006 cuốn “Tranh luận để đồng thuận” của nhà
xuất bản Tri thức, có in lại bài bình luận của Võ Văn Kiệt, Mai Chí Thọ, và
Nguyễn Đức Bình, nhưng vì có nội dung chỉ trích chánh phủ nên có lệnh cấm phát
hành.[
Đối với cuốn tiểu sử Ho Chi Minh: a Life của tác
giả William Duiker, lãnh đạo Việt Cộng cũng đòi xóa bỏ những đoạn liên quan đến
người vợ Tăng Tuyết Minh trong bản dịch sang Việt ngữ. Tác giả phản đối,
không chấp nhận việc cắt xén khiến cuốn sách bị trở ngại không được lưu hành. Cuốn The Spy Who Loved Us của
Thomas Bass xuất bản năm 2009, viết về điệp viên Phạm Xuân Ẩn qua phiên
bản tiếng Việt, đã bị cắt xén sau 5 năm kiểm duyệt khiến tác giả phải than
phiền. Những đoạn bị cắt bỏ là phần viết về cuộc Cải Cách Ruộng Đất trên
đất Bắc vào giữa những năm 1950.
Năm 2014 cuốn Đèn Cù của Trần Đĩnh, xuất
bản ở ngoại quốc và bán qua <Amazon.com> khi gửi qua bưu điện về
Việt Nam thì bị giữ lại. Người mua phải viết giấy "từ chối nhận hàng vi
phạm" vì không đúng với luật xuất bản 2012. Bưu Cục còn ghi rõ sách bị cấm
vì "có nội dung nói xấu chế độ, xúc phạm lãnh đạo Việt Cộng, không được
nhập cảng. Lệnh cấm có khi chỉ là chỉ thị truyền miệng mà không có văn bản như
cuốn “Petrus Ký Nỗi oan thế
kỷ” của học giả Nguyễn Đình Đầu Sách đã được Cục Xuất Bản cấp lưu
chiểu, nhưng đến hôm ra mắt sách vào đầu năm 2017 thì phải hủy và sách bị cấm.
Số 13.Tội
ác trong đổi tiền 1975-1978-1985 (source: Wikipedia).
Sau khi chiếm Việt Nam Cộng Hòa ngày
30/4/1975, lãnh đạo Việt Cộng ngụy trang bộ máy cầm quyền dưới tên gọi Chánh
Phủ Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam. Lúc ấy, tổng số tiền giấy lưu hành là 615 tỷ
đồng, và tồn trữ trong Ngân Hàng Quốc Gia hơn 1.000 tỷ đồng. Trong khi toàn bộ
các ngân hàng bị niêm phong ngay chiều 30/4/1975. Và ngày hôm sau -1/5/1975-
cộng sản ra lệnh quốc hữu hóa toàn bộ ngân hàng.
Ngày 6/6/1975, cộng sản thành lập ngân hàng Quốc
Gia Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam, và
thông qua danh nghĩa này để thừa kế vai trò hội viên của Ngân Hàng
Quốc Gia thời Việt Nam Cộng Hòa trong
các tổ chức tài chánh quốc tế.
Ngày 22/9/1975, tiền giấy
Việt Nam Cộng Hòa đang lưu hành với mệnh giá từ 50 đồngtrở
lênbị cấm lưu hành, và đổi sang tiền mới. Thời
gian đổi tiềnmới, từ 11 giờ sáng đến cuối10 giờ tối ngày 22/9/1975, chỉ có 12
tiếng đồng hồ.
Có hai loại hối suất: (1)Từ Đà Nẳng vào cực Nam, thì
500 đồng Việt Nam Cộng Hòa bằng 1 đồng tiền mới.(2)Từ Huế ra cực Bắc, thì 1.000
đồng Việt Nam Cộng Hòa bằng 3 đồng tiền mới.
Căn bản: Mỗi gia đình, cứ 100.000
đồng Việt Nam Cộng Hòa đổi được 200 đồng tiền mới. Nếu là tiểu thương, cứ 200.000
đồng tiền cũ đổi được 400 đồng tiền mới. Và nếu hảng xưỡng, cứ 500.000 đồng
tiền cũ, đổi được 1.000 đồng tiền mới..
Trong số tiền đem đến đổi tiền
mới theo căn bản nói trên, nếu số tiền còn lại tối đa là 100.000 đồng tiền cũ
của mỗi gia đình, và tối đa là 1.000.000 đồng tiền cũ đối với mỗi hảng xưỡng,
bắt buộc ký thác vào ngân hàng. Nhưng sau khi nhận tiền ký gởi số tiền còn
lại thì ngân hàng đóng cửa. Đầu năm 1976, ngân hàng mở cửa lại, nhưng
mỗi tháng gia đình chỉ được rút tối đa là 30 đồng tiền mới, nhưng phải làm đơn
gởi cho nhà cầm quyền địa phương và chờ cứu xét. Nhưng, đến cuối năm 1976, gia đình
cũng như hảng xưỡng, dù còn bao nhiêu tiền trong ngân hàng đều vuột khỏi nắm
tay, vì tất cả thuộc tài sản
của lãnh đạo Việt Cộng.
Về tỷ giá hối đoái với đồng mỹ kim
lúc ấy: 1.51 đồng tiền mới, đổi được 1 mỹ kim.
Ngày 3/5/1978, lại đổi
tiền. Lần này đổi tiền trên toàn cõi Việt Nam, theo căn bản: 1 đồng tiền cũ
miền Bắc đổi được 1 đồng tiền mới 1 đồng tiền mới năm 1975 của miền Nam đổi
được 0.80 đồng tiền mới cả nước.
Tiêu chuẩn số tiền tối đa được đổi
tiền như sau:
Thành phố: 100 đồng cho
gia đình 1 người. 200 đồng cho mỗi gia đình 2 người. Gia đình 3 người, thì
người thứ 3 trở lên, mỗi người được 50 đồng. Tối đa cho mỗi gia đình là 500
đồng,bất kể số người là bao nhiêu.
Miền quê: 100 đồng
cho gia đình 2 người. Gia đình trên 2 người, thì mỗi người từ người thứ 3 trở
lên được đội 30 đồng. Tối đa cho mỗi gia đình là 300 đồng, bất kể số người là bao nhiêu.
Số tiền
được đổi, nếu trên mức tối đa phải khai báo và bắt buộc gởi
ngân hàng, khi cần sử dụng phải xin phép nếu có lý do chính đáng. Một điều kiện bắt buộc, người dân phải chứng minh số tiền
trên mức tối đa là do đâu mà có.
Năm 1985, đổi tiền lần
thứ 3. Cứ 10 đồng tiền của năm 1978, đổi được 1 đồng tiền mới năm 1985.
Tóm tắt. Qua lần đổi
tiền 1975, cộng sản đã nhân danh nhà cầm quyền mà cướp một khoản tiền của người
dân Việt Nam Cộng Hòa cũ, khi bắt buộc gởi vào ngân hàng. Nhưng chỉ cho rút tiền
rất giới hạn mà lại phải có lý do gọi là “chính đáng” trong đơn xin, và một năm
sau tổng số tiền của đồng bào còn lại trong ngân hàng đều biến mất.Đúng là bản
chất cướp đoạt của cộng sản.
Về tỷ giá hối đoái. Năm 1975, sau
khi đổi tiền, thì 1.51 đồng tiền mới, đổi được 1 mỹ kim. Sau rất nhiều lần phá
giá đồng bạc Việt Nam, đến ngày 11/2/2011, ngân hàng nhà nước Việt Nam ấn định
tỷ giá mới là: 21.693 đồng Việt Nam, đổi được 1 Mỹ kim. Thử làm bài toán vể tỷ
giá hối đoái giữa đồng bạc Việt Nam với đồng mỹ kim Hoa Kỳ:
- Năm 1975: Sau khi đổi tiền thì
1.53 đồng Việt Nam, bằng 1 mỹ kim.
- Năm 1985: Đồng bạc Việt Nam tự phá
giá: 10 đồng của năm 1975, đổi được 1 đồng của năm 1985, tức đồng bạc 1975 mất
giá đến 10 lần.
Số 14. Tội
ác tịch thu tài sản của dân 1975-1984 (source: Wikipedia).
Ngày 4/9/1977, theo
Quyết Định số 111/CP do Thủ Tướng Việt Cộng Phạm Hùng ký,
tịch thu nhà cửa đất đai tài sản của người Việt Nam Cộng Hòa cũ, trong đó có
người Việt gốc Hoa, nhưng giấu kín đến ngày 11/9/1977 đồng loạt
thực hiện tại 17 tỉnh từ Quảng Trị trở xuống, và
thành phố Sài Gòn.
Đợt 1 năm
1976-1979, tịch thu toàn bộ tài sản của người Việt gốc Hoa, và bắt buộc những người bị
cướp hết tài sản, phải đến sống tại các nơi mà Việt Cộng gọi là khu kinh tế mới.
Và đợt 2 năm
1979-1984, tịch thu toàn bộ tài sản của các tư thuơng, tiểu tư sản, các thành
phần sản xuất nhỏ, cơ sở kỹ nghệ nhẹ, và các công ty giao thông
đường bộ, đường thủy.
Những ai tại Sài Gòn bị lãnh đạo Việt
Cộng cướp nhà, tịch thu tài sản, đều phải
đi về khu kinh tế mới, là những nơi mà cơ sở hạ tầng cho sinh hoạt thường ngày chưa được xây dựng, nơi đó chưa có
điện nước, trường học, và bệnh Xá. Khoảng 600.000 nạn nhân bị cưỡng bức trong một đêm phải rời Sài Gòn, bỏ lại toàn bộ tài sản của mình từ
nhà ở, của cải, đồ đạc để nhà cầm quyền lùa đến các nơi
hoang sơ mà họ gọi khu kinh tế mới.
Tổng kết
từ các báo cáo thành tích cải tạo xã hội chủ nghĩa, số người bị cưỡng bức đi khi kinh tế mới
trong chiến dịch đánh tư sản, họ lồng vào đó là đẩy người Sài Gòin ra khỏi
thành phố, để họ đưa người từ miền Bắc vào chiếm nhà ở và tài sản, mà hầu hết
là thân nhân dòng họ của các cấp lãnh đạo Việt Cộng.
Với chính sách đánh tư sản những
người Việt Nam Cộng Hòa cũ, gồm cả người Việt gốc Hoa, và tịch thu tài sản của
họ, đã bị ảnh hưởng bởi thay đổi nhanh chóng của mối bang giao giữa Việt Nam và
Trung Cộng.
Tư sản mại bản ngã quỵ, đã dẫn đến
mức lạm phát lên đến 80% cùng với vấn đề tiếp diễn của sự thiếu thốn và nạn đầu
cơ lương thực, lãnh đạo Việt Cộng sợ rằng Hoa kiều có thể bị lôi kéo theo các
mục tiêu của Trung Cộng. Người Hoa ở Chợ Lớn tổ chức biểu tình đòi giữ
quốc tịch Trung Hoa. Những điều này làm cho chánh phủ Việt Cộng lo lắng về nguy
cơ đất nước bị rối loạn cả từ bên trong lẫn từ bên ngoài, và coi Hoa kiều là
một lực lượng ở Việt Nam sẵn sàng tiếp tay với Trung Cộng để phá hoại.
Trong năm 1978 - 1990, khoảng 30.000
doanh nghiệp lớn nhỏ của Hoa kiều bị quốc hữu hóa. Vị thế kinh tế của đa số tư
sản Hoa kiều bị hủy bỏ, nhà nước thắt chặt kiểm soát nền kinh tế. Bang giao
ngày càng xấu đi giữa Việt Cộng với Trung Cộng, làm tăng thêm số người Hoa rời
Việt Nam.
Số 15 Tội ác khi chiếm toàn bộ đất đai toàn quốc
1978 (source: Wikipedia).
Tháng 5/1978. Chỉ thị 43 của Bộ Chính Trị,
toàn bộ đất đai trên lãnh thổ Việt
Nam trở thành tài sản của lãnh đạo Việt Cộng, người dân chỉ được cấp phát –sau
khi xét đơn xin- dưới tên gọi “người sử dụng đất”. Vậy là, sau khi cướp tài sản
của 18.000.000 dân Việt Nam Cộng Hòa (cũ), lãnh đạo Việt Cộng cướp cả một phần
đất trên mặt địa cầu.
Khi có Hiến Pháp, thì đất đai chánh
thức thuộc về lãnh đạo Việt Cộng, mà họ ghi là “quyền sở hữu của toàn dân, và
không công nhận quyền sở hữu đất đai của tư nhân”. Việt Nam dưới chế độ
độc tài toàn trị, người dân phải làm đơn xin sử dụng đất để cất nhà hay làm
vườn làm ruộng, phải chờ nhà cầm quyền cứu xét, còn cho phép sử dụng hay không
là tùy thuộc quyền lợi của họ, hoặc những lúc họ vui hay buồn.
Chính vì Chỉ Thị 43 mà toàn bộ đất
đai trên toàn cõi Việt Nam vào tay lãnh đạo Việt Cộng, và sau đó Hiến Pháp hợp
thức hóa, đã dẫn đến hằng chục ngàn thậm chí là hằng trăm ngàn Dân Oan sống
lang thang ở các công viên, vì lãnh đạo Việt Cộng cưỡng bách thu hồi đất dem
bán cho các công ty ngoại quốc đầu tư, nhất là các công ty từ Trung Cộng đến.
Riêng
tại Sài Gòn, báo Tuổi Trẻ đã thừa nhận hơn 10.000 tiệm bán hàng hóa
vật dụng, bị đóngcửa chỉ trorng một đêm, khiến một viên thuốc trụ
sinh cũng không có mà mua, mà dùng. Nhà sách Khai Trí lừng lẫy, biểu tượng của
cả Sài Gòn, cũng bị truyền thông Việt Cộng tại Sài Gòn lúc bấy giờ rêu rao là “tư bản chó đẻ” cần phải tịch thu. Nhà sách
Khai Trí đã từ tâm giúp đỡ biết bao văn nghệ sĩ của miền Nam, âm thầm thực hiện
đường lối khai dân trí của cụ Phan Chu Trinh cho dân tộc, mà nay cũng bị lãnh đạo Việt
Cộng cướp sạch.
Tháng 3/2013, khi Quốc Hội Việt Cộng
đang trong thời gian sửa đổi Luật Đất Đai, thì Tổ chứcLiên Hiệp Quốc tại Việt Nam
nhấn mạnh rằng: "Đối xử
công bằng giữa các thành phần sử dụng đất là rất quan trọng đối với tăng trưởng
công bằng hơn, và phát triển con người ở Việt Nam.
VàNgân Hàng Thế giới tại Việt
Nam cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc sửa đổi luật đất đai tại Việt Nam: “Điều quan trọng là sửa đổi Luật Đất
đai cần tạo ra một môi trường thuận lợi hơn cho việc quản trị đất đai một cách
hiệu quả, công bằng, và bền vững hơn về môi trường đối với nguồn tài nguyên đất
đai khan hiếm."
Số 16. Tội
ác vụ nộp vàng vượt biển 1978-1979 (source: Wikipedia).
Trong những năm 1978-1979, khoảng
250.000 người Việt gốc Hoa trở về mẫu quốc qua biên giới phía Bắc mà Trung Cộng
gọi đây là vấn đề “nạn kiều”. Vì chế độ cai trị khắc nghiệt trong khi kinh tế
vô cùng khóa khăn, người Việt gốc Hoa cùng với người Việt chính thống thời Việt
Nam Cộng Hòa cũ, đã vượt biên vượt biển đến quốc gia thứ ba để để tìm đường
sống cho tương lai các con các cháu.
Công An Việt Cộng lừa người Việt gốc
Hoa để cướp vàng, bằng cách bảo mỗi người phải nộp vàng thì Công An cho lên tàu
chở ra biển chờ tàu buôn ngoại quốc nhận và chuyển tiếp đến nước thứ ba. Chỉ có
2 hay 3 chuyến tàu đầu tiên là trót lọt, sau đó là họ đưa ra biển rồi hôm sau
quay vào, và họ viện dẫn sắp có bão, hoặc nói tàu bị hư, ..v..v...
Chuyện là tháng 11/1978, “Bộ Công An trách
nhiệm thực hiện lệnh của lãnh đạo Việt Cộng, cho phép các Sở Công An tổ chức
những chuyến vượt biển cho thành phần người Việt gốc Hoa, với 3 lượng vàng mỗi
đầu người, nhưng thực tế thì Công An bắt mỗi đầu người ghi tên vượt biển phải
nộp cho họ 7 lượng vàng, hoặc hơn thế nữa. Lệnh này có mục đích vừa đẩy thành
phần đó ra khỏi Việt Nam, vừa thu vàng bổ sung ngân sách. Từ năm 1978 đến năm
1982, Bộ Công An thu được 700.000 lượng vàng”.
Bản tin này tôi nhận trên internet
do một tổ chức chính trị bên Germany phổ biến. E-mail cũng cho biết, tin tức
này tiết lộ từ Bộ Công An Việt Cộng.
Vàng thì họ thu khi ghi danh, còn
bao nhiêu người thoát khỏi Việt Nam thì không ai biết, chỉ có họ với Trời mới
biết số vàng khổng lồ đó đi đâu.
Số 17. Tội
ác đã đẩy người dân vượt phải biên vượt biển 1976-1995.
Ngay sau ngày đánh chiếm Việt Nam
Cộng Hòa 30/4/1975, hằng
chục thậm chí là hằng trăm ngàn thương phế binh Việt Nam Cộng Hòa bị đẩy ra
khỏi toàn bộ hệ thống quân y viện, đày đọa nửa triệu quân nhân viên chức Việt
Nam Cộng Hòa trong hệ thống trại tập trung suốt 17 năm, đoạt 16 tấn vàng thoi
mà nói láo là cựu Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu ăn cắp đưa ra ngoại quốc, đổi
tiền để cướp tiền của đồng bào, chiếm đoạt cơ sở những nhà buôn bán mà họ gọi
là “chiến dịch đánh tư sản” để biến toàn xã hội thành vô sản, và gia đình quân
nhân viên chức cũ bị đối xử kỳ thị trong mọi sinh hoạt xã hội, rồi buộc
gia đình quân nhân viên chức Việt Nam Cộng Hòa vào các khu kinh tế mới để cướp
đoạt nhà cửa tài sản, sau khi bắt chồng họ vào các trại tập trung, ..v..v.. đã
quá đủ để khẳng định không thể sống được dưới chế độ cộng sản độc tài tàn bạo.
Vậy là, đồng bào tìm mọi phương cách trốn khỏi quê hương để tìm đất sống tại
các quốc gia tự do.
Hình ảnh và tin tức tràn lan trên
báo chí ngoại quốc, giùp cho thế giới nhìn thấy tình cảnh hằng triệu người Việt
Nam Cộng Hòa cũ phải xuyên rừng rậm vượt biên giới bỏ xác giữa rừng sâu, phải
vượt biển trên những chiếc tàu thuyền bé bỏng, đã để lại những dòng sông đẫm
máu và xác người nhấp nhô trên biển cả mênh mông, đến mức thế giới phải kinh
hoàng trước sự can đảm tột cùng của người Việt Nam vượt lên sự chết để tìm sự
sống dân chủ tự do, đồng thời góp vào hồ sơ tội ác để cảnh tỉnh thế giới về chủ
nghĩa cộng sản.
Theo tài liệu của Liên Hiệp Quốc công
bố vào năm 2000, thì từ năm
1975 đến năm 1995, đã có 839.200
người vượt biên vượt biển đến tị nạn chính trị tại 91 quốc gia tự do, và Liên Hiệp Quốc ước
lượng khoảng 400.000 đến
500.000 người đã chết trên biển và trong rừng, trên đường chạy trốn
cộng sản! Lại cuộc bỏ phiếu
bằng chânlần 2 “bầu chọn” Dân Chủ Tự Do.
Xin nhắc lại là trong 300 ngày từ
sau Hiệp Định Đình Chiến 20/7/1954 có
hiệu lực, đã có 868.672 người từ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa chạy vào nước
Việt Nam Cộng Hòa dân chủ tự do tị nạn. Từ năm 1954 đến năm 1956, có thêm
102.861 người trốn khỏi phần đất cộng sản vào phần đất tự do Việt Nam Cộng Hòa
chúng tôi tị nạn. Cộng chung là 971.533 người. Đó là cuộc bỏ phiếu bằng chânlần 1 “bầu
chọn” Dân Chủ Tự Do.
Số 18. Tội
ác về 64 chiến sĩ Việt Cộng chết trên đá Gạc Ma năm 1988.
“Hải chiến Gạc Ma 1988” là nhóm chữ
nói đến 64 chiến sĩ giữ Đá Gạc Ma trong quần đảo Trường Sa khi bị Hải Quân
Trung Cộng tấn công Đá Chữ Thập từ ngày 31/1/1988, Đá Châu Viên ngày 18/2/1988,
Đá Ga Ven ngày 26/2/1988, Đá Tư Nghĩa ngày 28/2/1988, Đá Xu Bi ngày 23/3/1988,
Đá Gạc Ma + Đá Cô Lin + Đá Len Đao cùng ngày 14/3/1988. Bài “Hải chiến Gạc Ma +
Cô Lin + Len Đao” trong Wikipedia, mô tả trận chiến đã xảy ra giữa Hải Quân
Việt Cộng với Hải Quân Trung Cộng, cuối cùng thì Việt Cộng có 3 chiến hạm bị
chìm và 64 chiến sĩ tử trận, nói cho đúng là ôm súng để bị bắn chết. Phía Trung
Cộng hư hại 1 xuồng đổ bộ và 24 chiến sĩ thương vong.
Rồi 27 năm sau, Thiếu Tướng Việt
Cộng Lê Mã Lương, anh hùng lực lượng võ trang nhân dân, từng giữ chức Giám Đốc
Bảo Tàng Lịch Sử Quân Sự Việt Cộng tường thuật trong cuộc hội luận nhân ngày kỷ
niệm cuộc chiến Gạc Ma, do Trung Tâm Minh Triết tổ chức vào năm 2015 tại khách
sạn Công Đoàn.
Hộm ấy, Tướng Lê Mã Lương tường
thuật: “Nó có một câu chuyện như
thế này: Có đồng chí lãnh đạo cấp cao ra lệnh bộ đội ta không được nổ súng nếu
như đánh chiếm cái đảo Gạc Ma hay bất kỳ đảo nào ở Trường Sa. Không được nổ
súng! Và sau này nó có một câu chuyện và nó đã được ghi vào tài liệu mà ta đã
rõ rồi là khi trong một cuộc họp của Bộ Chính Trị, đồng chí Nguyễn Cơ Thạch đập
bàn và nói là ai ra lệnh cho bộ đội không được nổ súng? Những người lính hy
sinh đầu tiên ấy cộng thêm con số bộ đội bị quân Trung Quốc sát hại nâng lên 64
người, là một vết thương lớn cho người lính bất cứ quân đội nào khi họ không được
cầm súng chống lại quân thù. Ngài Bộ Trưởng Quốc Phòng hồi bấy giờ là ngài Lê
Đức Anh đã ra cái lệnh như vậy.”
Ông Nguyễn Khắc Mai, Giám Đốc Trung
Tâm Nghiên Cứu Văn Hoá Minh Triết, nói về vai trò của Tướng Lê Đức Anh lúc ấy
là Bộ Trưởng Quốc Phòng, người được xem là đã ra lệnh cho bộ đội không được nổ
súng: “Ngài Bộ Trưởng Bộ Quốc
Phòng hồi bấy giờ là ngài Lê Đức Anh, đã ra cái lệnh như vậy mà anh Lê Mã Lương
đã tường thuật trong hội thảo tưởng niệm Gạc Ma, thì bây giờ ta phải công khai
cái này. Một Bộ Trưởng Quốc Phòng thấy giặc nó xâm lấn bờ cõi của mình mà ra
lệnh không được chống lại, đứng im như thế cuốn cờ lên người mình để cho nó nã
súng nó bắn!
Thiếu Tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, một
nhà ngoại giao kỳ cựu, am hiểu sâu sắc vấn đề Trung Quốc đánh giá quyết định
không nổ súng của Bộ Trưởng Quốc Phòng Lê Đức Anh: “Tôi cho rằng, lúc bấy giờ ông Lê Đức
Anh được đưa lên làm Bộ Trưởng Quốc Phòng mà làm cái việc như thế là một việc
phản quốc. Ra lệnh không được bắn lại để cho Trung Quốc nó giết chiến sĩ của
mình như là bia sống, thì tôi cho đó là một hành động phản động, phản quốc.
Ông Lê Đức Anh là cai
đồn điền cao su của một người tình báo của Pháp chứ ông ta không phải tham gia
cách mạng lâu dài gì đâu. Chẳng qua ông ấy khai man lý lịch rồi được lòng ông
Lê Đức Thọ, rồi ông Lê Đức Thọ cứ đưa ông ấy lên vù vù trở thành Bộ Trưởng Quốc
Phòng, sau này thành Chủ Tịch nước. Cái điều đó những người biết chuyện như tôi
lấy làm đau lòng lắm, và cho là một nỗi nhục của đất nước. Cho đến hôm nay 64
người anh hùng liệt sĩ ở Gạc Ma đấy, nhiều người xác vẫn còn nằm dưới biển, và
cái ông Nông Đức Mạnh nguyên Tổng Bí Thư lại nói rằng thôi cứ để yên như thế!
Đáng lẽ anh phải... tìm cách vớt lên, và đưa thân xác của các liệt sĩ ấy về quê
mẹ, thì anh lại để im...”
Kết luận.
Những gì mà tôi ghi chép lại trong
Thư này, đều là sự thật trước mắt Các Anh. Tôi mong Các Anh hãy bình tâm mà suy
nghĩ từ chiều sâu tâm hồn của chính mình chớ không phải tâm hồn của người đảng
viên cộng sản, và nhận định thảm họa đối với cuộc sống của toàn dân, trong đó
có Các Anh và gia đình Các Anh! Các Anh đừng đứng nhìn một cách vô cảm nữa mà hãy hành động “như một đầu
tàu”, kéo theo 94 triệu bà con trên quê hương Việt Nam thân yêu, và mạnh dạn
đứng lên quật sập cái chế độ cộng sản độc tài tàn bạo, một chế độ đã tạo nên
một xã hội băng hoại bắt nguồn từ chính sách giáo dục ngu dân, để cùng nhau xây
dựng một nền văn hoá khai phóng, nhân bản, khoa học, và phát triển toàn diện
các lãnh vực sinh hoạt trong một xã hội dân chủ pháp trị, mà mọi người được
hưởng một cách tự nhiên những quyền căn bản của mình, và đó chinh là văn minh. Nếu Các Anh “không
thể đứng dậy làm đầu tàu” thì khi người dân đứng dậy, Các Anh hãy đứng về phía
đồng bào mà hành động.
Tôi vững tin rằng, bà con trong Cộng
Đồng Việt Nam tị nạn cộng sản tại hải ngoại -đặc biệt là Những Người Lính Chúng
Tôi- sẽ hết lòng hỗ trợ Các Anh và quí vị đồng bào, những thành phần làm nên lịch sử.
Và Các Anh đừng quên
rằng: “Tự do, không phải là điều đáng sợ,
mà là nền tảng cho sự thịnh vượng của đất nước. Không có dân chủ, không thể có
sự trỗi dậy và phát triển bền vững. Và chính chúng ta phải tranh đấu,
vì Dân Chủ Tự Do không phải là quà tặng.
Texas, tháng 6 năm 2017
~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~
__._,_.___
Posted by: !YAHOO!